GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Xã hội


MẠNG LƯỚI HỢP TÁC TRONG BẢO TỒN LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG GION VÀ ONBASHIRA Ở NHẬT BẢN (Phần 1)

Văn hóa là các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo bởi một xã hội hoặc một nhóm xã hội, nó đặc trưng cho xã hội và nhóm xã hội ấy. Chính vì vậy, văn hóa không thể được phát triển và trao truyền bởi những cá nhân đơn lẻ, mà bởi các mạng lưới xã hội. Trong mạng lưới ấy, có sự phân công công việc giữa các thành viên, cùng nhau đóng góp sức người, sức của, chia nhau trách nhiệm để cùng duy trì “cỗ máy tài sản văn hóa”. Ở Nhật Bản, có những lễ hội có lịch sử hơn 1000 năm, vẫn được bảo tồn, gìn giữ và tổ chức cho đến ngày nay với vẹn nguyên các giá trị truyền thống.



HIKIKOMORI – VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN

Một cuộc thăm dò của chính phủ công bố ngày 29/3/2019 cho thấy có khoảng 613.000 người Nhật Bản từ 40-64 tuổi đã bị xếp vào loại sống ẩn dật, tự giấu mình trong nhà và không muốn làm việc. Số lượng hikikomori trong nhóm tuổi từ 40-64 cao hơn trong nhóm tuổi từ 15-39 (với 541.000 người). Tổng số người đang sống ẩn dật ở Nhật Bản được cho là hơn 1 triệu người. Vào thời gian đầu xuất hiện, đa phần những hikikomori còn khá trẻ với độ tuổi trung bình chỉ khoảng 21. Tuy nhiên theo những khảo sát gần đây, độ tuổi trung bình của những hikikomori tại Nhật Bản ngày càng cao.



SO SÁNH VỐN XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC (phần 2)

Người Nhật Bản trước những năm 1990 đã tham gia tích cực vào các hội đoàn tự trị địa phương, chiếm tỉ lệ trên dưới 60% dân số, song con số này vào những năm 2000 giảm dần, mối quan hệ mang tính địa lý đang được thay thế bằng các mối quan hệ phi địa lý như mạng internet và các tổ chức xã hội hoạt động qua mạng. Nếu như vào những năm 1980, tỉ lệ tham gia hội tự trị, hội phố, hội thôn, làng lên đến trên 65% thì từ năm 2000 giảm xuống còn 50%, năm 2007 còn 40,4%. Đồng thời, tỉ lệ tham gia các tổ chức như hội phụ nữ, đoàn thanh niên cũng giảm từ 17,1% vào năm 1972 xuống còn 13,1% vào đầu những năm 1990, đến năm 2007 chỉ còn 6,6%.



SO SÁNH VỐN XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC (phần 1)

Putnam trong cuốn “Triết học của chủ nghĩa dân chủ” (1993) đã định nghĩa về vốn xã hội như sau: “Vốn xã hội là đặc trưng của hệ thống xã hội” như “lòng tin”, “các cam kết” và “mạng lưới” có thể cải thiện được hiệu quả của xã hội bằng cách làm cho các hành động hợp tác trở nên dễ dàng hơn”. Vào năm 2000, Putnam tiếp tục xuất bản cuốn sách “Chơi bowling một mình” lừng danh, trở thành cuốn sách bán chạy nhất, trong đó ông đề cập đến vốn xã hội như sau: “Vốn xã hội biểu thị mối quan hệ giữa các cá nhân, có nghĩa nó là “mạng lưới mang tính xã hội”, trong đó, các quy tắc về “lòng tin” và “cam kết” nảy sinh từ nó. Về điểm này, vốn xã hội có quan hệ mật thiết với cái gọi là “đạo đức công dân”.



NHẬT BẢN MỞ RỘNG CÁNH CỬA CHO LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Bức tranh dân số tương lai của Nhật Bản đang thiếu hụt những gam màu tươi sáng nhất, đó là những người trẻ tuổi. Theo Chính phủ Nhật Bản, hơn một phần tư số dân nước này (tương đương 26,7%) ở độ tuổi từ 65 trở lên. "Xứ sở mặt trời mọc" còn đối mặt tình trạng số dân giảm do tỷ lệ sinh đẻ thấp. Số liệu do Chính phủ Nhật Bản công bố ngày 13-4 vừa qua cho thấy, số dân nước này đã giảm 227 nghìn người, xuống còn 126,7 triệu người vào tháng 10-2017, giảm 0,18% so cùng kỳ năm trước đó. Trong đó, có 40 trong tổng số 47 tỉnh của Nhật Bản có tỷ lệ dân số giảm.



XÃ HỘI NHẬT BẢN SIÊU GIÀ HÓA VÀ NHỮNG HỆ LỤY

Năm 1950, Nhật Bản chưa phải là nước có tỉ lệ người già trên tổng dân số cao, thấp hơn nhiều so với các nước châu Âu như Italy, Đức, Anh, Pháp. Song đến năm 2015, tỉ lệ này của Nhật Bản cao nhất thế giới. Mặt khác, theo thống kê năm 2016 số lượng trẻ em sinh ra ít hơn số lượng người già tử vong khiến tình trạng già hóa dân số ngày càng trầm trọng.



SỰ CHUYỂN ĐỔI HÌNH THỨC VỐN XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN (phần 2)

Nhắc đến sự biến đổi của cộng đồng, không thể không đề cập đến một nguyên nhân bắt nguồn từ cuộc sống hiện đại với sự phát triển của các phương tiện giao thông và truyền thông. Sự phổ cập của tivi, điện thoại và các sản phẩm gia dụng hiện đại đã nâng cao tiêu chuẩn tiêu dùng của người dân, phạm vi cuộc sống của họ không chỉ bó hẹp trong không gian “làng” hay “phố” nữa, mà được mở rộng qua cả biên giới quốc gia, cùng với đó, cảm giác cần phải dựa vào những thành viên khác trong cộng đồng để cùng tồn tại đã giảm đi đáng kể.



SỰ CHUYỂN ĐỔI HÌNH THỨC VỐN XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN (phần 1)

Ở Nhật Bản, Tiểu ban các vấn đề về cộng đồng thuộc Phòng điều tra của Hội đồng tư vấn đời sống quốc dân (1969) đưa ra định nghĩa: “cộng đồng là nhóm người mà các chủ thể cấu thành bao gồm các cá nhân hoặc gia đình có tính tự chủ, tự giác về trách nhiệm công dân của mình tại nơi sinh sống, cùng có những đặc tính của khu vực và cùng có những mục tiêu chung, có sự tin tưởng lẫn nhau một cách tự nguyện”. Còn theo Hiroi Yoshinori (2009), cộng đồng là “nhóm người có chung ý thức quy thuộc nào đó, và giữa các thành viên của nhóm có sự liên kết nhất định hoặc có ý thức giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau”. Tóm lại, theo các nhà xã hội học Nhật Bản, “cộng đồng” là “một tập hợp của các nhóm xã hội được cấu thành từ những cá nhân và gia đình, mang tính cộng đồng (tức là có ý thức liên kết và phụ thuộc lẫn nhau, có ý thức hỗ trợ, bổ sung cho nhau) và có tính địa phương, cùng có mối quan hệ lợi ích về kinh tế, xã hội...”.



TỶ LỆ THẤT NGHIỆP CỦA NHẬT BẢN CÓ CHIỀU HƯỚNG GIẢM

Bước sang tháng 5/2018,  tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản giảm xuống 2,2%, mức thấp nhất trong hơn 25 năm qua, trong bối cảnh lao động khan hiếm. Tỷ lệ giữa số việc làm trên ứng viên, một thước do nhu cầu lao động, đã tăng lên 1,60, mức cao nhất kể từ tháng 1/1974. Đó là tin tích cực cho Ngân hàng Nhật Bản trong kế hoạch thực hiện mục tiêu lạm phát 2%. Tuy nhiên, các công ty trong nước đang phải vật lộn với tình trạng thiếu lao động ngày càng tăng vì dân số già hóa nhanh chóng, có nghĩa là ít người lao động hơn. Trong nỗ lực để giải quyết tình hình, Nội các của Thủ tướng Shinzo Abe hồi đầu tháng 6 đã phê duyệt kế hoạch chấp nhận nhiều lao động người nước ngoài hơn.



NHẬT BẢN TĂNG CƯỜNG TIẾP NHẬN LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Lo ngại những ảnh hưởng xấu của tình trạng dân số ngày càng già hóa, đầu năm 2018, nhân dịp kỷ niệm 150 năm Cải cách Minh Trị, thủ tướng Abe đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lực lượng lao động. Ông cho rằng nguồn nhân lực đông đảo được nuôi dưỡng dưới thời kỳ Minh Trị duy tân, cùng với ý thức về khủng hoảng quốc gia đến từ các cường quốc phương Tây, là động lực cho quá trình hiện đại hóa nhanh chóng của Nhật Bản.



1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 ... 27
  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn