GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 1)

Đăng ngày: 16-06-2021, 08:02

Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn, nhưng đất nước này đã nhanh chóng trải qua thời kỳ già hóa dân số cao độ, ít trẻ em, và cách đây khoảng 1 thập kỷ, bước vào thời kỳ suy giảm dân số. Hành vi dân số của người dân ở một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến động thái phát triển dân số của quốc gia đó. Hành vi dân số của người Nhật Bản hiện đại, bên cạnh việc chịu ảnh hưởng của lối sống hiện đại, còn có liên quan chặt chẽ đến các hành vi dân số trong quá khứ, chịu ảnh hưởng của những tập quán, thói quen, lối sống trong quá khứ. Tìm hiểu lịch sử phát triển dân số Nhật Bản sẽ góp phần giúp chúng ta lý giải về những biến động dân số ở Nhật Bản thời cận đại và hiện đại.

1. Dân số Nhật Bản trong lịch sử

Trong một số ít cái tài liệu ghi chép còn sót lại, người ta ước đoán dân số Nhật Bản đã trải qua những thời kỳ biến động lớn ở thời Heian và thời Edo, trước khi bước vào giai đoạn cận-hiện đại. Vào thời Yaoi (cách đây khoảng 1.800 năm) dân số Nhật Bản vào khoảng 590.000 người, đến thời Nara (năm 725) tăng lên 4,51 triệu người, đây là giai đoạn mở rộng quy mô dân số. Từ thời Nara đến đầu thời Heian (năm 800), dân số tăng nhanh lên đến 5,51 triệu người trong vòng vài chục năm, nhưng sau đó bị đình trệ. Cuối thời Heian (1150) dân số dân số chỉ giữ ở mức 6,84 triệu người, đó là sự đình đốn trong khoảng vài thế kỷ. Vào thời Kamakura (1192), dân số Nhật Bản là 7,57 triệu người. Các giai đoạn sau đó, dân số tiếp tục tăng, như thời Muromachi (1338) dân số là 8,18 triệu người; đầu thời Edo (1603) dân số Nhật Bản là 12,27 triệu người, nhưng trong nửa đầu thời Edo có sự bùng nổ dân số, đạt 31,28 triệu người vào năm 1716, tức là tăng gấp đôi chỉ trong vòng 100 năm. Đến cuối thời Edo, sự gia tăng dân số bị chậm lại, song thời Minh Trị dân số lại tiếp tục tăng. Nếu như vào thời điểm bắt đầu công cuộc Minh Trị Duy tân - năm 1868, dân số Nhật Bản là 33,3 triệu người thì đến cuối cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai (1945), dân số đã tăng gấp đôi, lên đến 72 triệu người. Dân số Nhật Bản cán mốc 100 triệu người vào năm 1967, đạt mức tăng cao nhất vào năm 2008 là 128,1 triệu người, sau đó giảm liên tục, đến năm 2019 còn 126,3 triệu người (Nguồn: Số liệu từ thời Yayoi đến thời Heian trích trong “Lịch sử Nhật Bản đọc từ dân số” (NXB.Kodansha, 2000); Số liệu từ thời Kamakura đến Minh Trị do Bộ Đất đai, hạ tầng và giao thông công bố; Số liệu dân số sau Chiến tranh Thế giới thứ 2 đến nay do Cục Thống kê Bộ Nội vụ công bố trong tài liệu “Điều tra tình hình quốc gia”).

Lý giải về nguyên nhân biến động dân số, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự gia tăng dân số từ thời Yayoi (250) đến thời Nara (725) là do nông nghiệp, mà chủ yếu là nghề trồng lúa phát triển, sản xuất lương thực, thực phẩm tăng chính là điều kiện để gia tăng dân số. Thời Heian dân số đình trệ do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, và một phần do sự sụp đổ của chế độ trưng thu thóc gạo theo ruộng khoán hộ tịch. Những thời kỳ sau đó, dân số lại gia tăng do người Nhật đã biết canh tác 2 vụ lúa, biết sử dụng sức ngựa, trâu, bò vào nông nghiệp, cải tiến thiết bị canh tác, nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, kéo theo sự phát triển của thương nghiệp và các hoạt động kinh tế khác. Lúc này, các lãnh chúa cũng liên tục mở rộng đất đai, đất canh tác phát triển, nhu cầu ngày càng lớn về nguồn nhân lực cho nông nghiệp chính là một yếu tố thúc đẩy gia tăng dân số. Thời Edo là một trong những thời kỳ gia tăng dân số mạnh nhất trong lịch sử nước Nhật, trong khoảng 1 thế kỷ, từ đầu thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 18 dân số Nhật Bản đã tăng hơn gấp đôi, từ 12 triệu người lên đến 30 triệu người. Tuy nhiên, việc gia tăng dân số đầu thời Edo lại liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi hình thái gia đình ở Nhật Bản.

2. Sự biến đổi hình thái gia đình Nhật Bản thời Edo

Sự thay đổi lớn nhất, tác động đến hình thái gia đình và sự gia tăng dân số ở Nhật Bản vào đầu thời Edo chính là nền tiểu nông nghiệp hình thành và phát triển. Nếu như vào cuối thời Heian, chế độ điền trang phổ biến với lãnh chúa - những nông dân có quyền lực, thu phục bên mình rất nhiều thuộc hạ và các gia đình nông dân phụ thuộc. Từ thời Muromachi, những nông dân dưới quyền các lãnh chúa bắt đầu tự lập trong các hoạt động kinh tế của mình, và trào lưu này phát triển mạnh nhất vào cuối thế kỷ thứ 16, nhờ chế độ “Kiểm địa”. Chế độ kiểm địa quy định mỗi người được canh tác trên 1 mảnh đất, tạo ra những nông dân chuyên nghiệp, cày cấy trên mảnh đất của mình. Thời kỳ này làm hình thành nền nông nghiệp nhỏ và mở ra con đường phát triển nông thôn Nhật Bản cận đại với đơn vị canh tác là “gia đình”.

Đầu thời Edo, vẫn còn tồn tại gia trang của những nông dân thuộc các dòng họ có quyền thế, việc canh tác, trồng trọt ở đây do thuộc hạ, hoặc các con thứ trong gia đình đảm nhiệm. Các gia đình nhỏ sống gần nhau tạo thành một đại gia đình quy mô lớn, gọi là “Gia đình hợp đồng”. Tuy nhiên, vào các thời kỳ sau đó, những thuộc hạ hoặc con thứ trong gia đình dần dần độc lập, hình thành tầng lớp “tiểu nông”. Họ đã tạo dựng ra các hộ gia đình của riêng họ, tạo ra một sự chuyển hoán lớn từ hình thái gia đình với trung tâm là “gia đình hợp đồng” quy mô lớn, sang kiểu gia đình trực hệ có quy mô nhỏ hơn. Vào thế kỷ 17, quy mô của các gia đình nông thôn vào khoảng 8 người, nhưng đến thế kỷ 19 đã giảm xuống chỉ còn khoảng 4 người.

Việc gia tăng các hộ gia đình kiểu mới đồng nghĩa với việc “những nông dân phụ thuộc (thuộc hạ, đầy tớ) vốn trước đây không được tự do kết hôn, thì giờ đây có thể kết hôn và tạo lập gia đình riêng của mình”, điều này khiến cho tỉ lệ người kết hôn tăng lên nhanh chóng, tỉ lệ người sống độc thân giảm. Kết quả là, từ nửa sau thời Edo, xã hội nông thôn Nhật Bản đã trở thành một “xã hội hôn nhân phổ biến”.

Theo một báo cáo vào năm 1675, tỉ lệ trên 16 tuổi chưa kết hôn ở nam giới là 46%, nữ giới là 32%, thì từ năm 1716 đến 1870, tỉ lệ nam giới từ 45 tuổi đến 49 tuổi chưa kết hôn chỉ chiếm vẻn vẹn 4,8%, còn tỉ lệ này ở nữ giới là 0,6%, có nghĩa là Nhật Bản đã tiến đến một xã hội mà tất cả mọi người đều kết hôn.

Như vậy là các tiểu nông trở nên độc lập, kết hôn và hình thành những hộ gia đình mới, gắn với đó là khai khẩn đất đai tăng mạnh, kinh tế nông thôn phát triển. Việc đồng áng vốn gắn liền với công việc kinh doanh của các gia đình nhỏ cũng tạo động lực làm việc cho mọi người. Bên cạnh đó, chế độ binh nông phân ly và chế độ thay phiên nhau tham gia việc công dẫn đến dân số ở khu vực thành thị tăng, nhu cầu lương thực thực phẩm cũng theo đó tăng lên. Sản xuất tăng, đến cuối thế kỷ 17 tạo ra cuộc bùng nổ dân số ở Nhật Bản. Và kiểu gia đình trực hệ mà chúng ta vẫn cho rằng đó là kiểu gia đình truyền thống ở Nhật Bản, thực chất ra đời vào thời Edo.

Đối lập với sự gia tăng dân số mạnh mẽ đầu thời Edo, từ nửa sau của thế kỷ 18, dân số rơi vào tình trạng trì trệ. Mạc Phủ Edo (1721) bắt đầu tiến hành điều tra về dân số 5 năm một lần. Cuộc điều tra lấy đối tượng là tầng lớp bình dân, không điều tra về tầng lớp võ sĩ hoặc quan lại, nên khó có thể nói đây là cuộc điều tra tổng thể về dân số Nhật Bản, nhưng từ đây chúng ta có thể thấy một số đặc điểm biến động dân số ở Nhật Bản.

Bảng 1: Biến động dân số Nhật Bản giữa thời Edo

Đơn vị: vạn người

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 1)

Nguồn: Nghiên cứu xã hội Mạc phủ Edo, Yoshikawa bunkan, 1988.

Bảng trên cho thấy dân số Nhật Bản dao động trong khoảng từ 17 triệu người đến 25 triệu người trong suốt 1 thế kỷ cuối thời Edo. Như vậy, sự gia tăng dân số mạnh mẽ đầu thời Edo đã đột ngột bị chững lại. Lý giải về những nguyên nhân dẫn đến giảm dân số, có một số nguyên nhân được kể đến như: thứ nhất, do giới hạn của việc mở rộng sản xuất nông nghiệp trước thời kỳ hiện đại hóa, nông nghiệp không phát triển nên không thúc đẩy việc gia tăng dân số; thứ hai là vào thế kỷ 18, toàn thế giới, trong đó có Nhật Bản đã trải qua một thời kỳ “tiểu băng hà” giá lạnh, nạn mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra, và để duy trì mức sống tương đối ổn định, người ta buộc phải hạn chế việc sinh đẻ. Thời Edo có 3 nạn đói lớn là nạn đói năm Thuận Bảo thứ 17 (1732), nạn đói Thiên Minh (từ năm Thiên Minh thứ 2 (1782) đến Thiên Minh 7 (1787)) và nạn đói Thiên Bảo (năm Thiên Bảo thứ 4 (1833) đến Thiên Bảo thứ 10 (1839), rất nhiều người chết đói và chết vì bệnh tật, và điều này cũng làm hạn chế tỉ lệ sinh đẻ của Nhật Bản trong giai đoạn này. Ảnh hưởng trực tiếp có thể thấy là sự giảm sút dân số vào các năm 1732-1744, 1774-1786, 1828-1840. Về nguyên nhân thứ 3, mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi, song có nhiều ý kiến cho rằng dường như có một thời kỳ “chọn lọc sinh” (間引き) đã được thực hiện. Chưa có tài liệu nào ghi chép lại về tính chất của vấn đề này, nhưng theo cuộc điều tra dân số được tiến hành vào năm 1750 thì tỉ lệ dân số giữa nữ và nam ở một số địa phương là 100:120, một tỉ lệ rất kỳ lạ. Vào thời đại mà các phương tiện tránh thai cũng như nạo phá thai còn chưa phổ biến như thời Edo, người ta tin rằng rất có khả năng những cuộc “chọn lọc sinh” đã diễn ra ở các vùng Đông Bắc, Bắc Kanto và Kyushu. Gần đây, cũng có những luồng ý kiến cho rằng, vào giữa thời Edo, người Nhật đã hạn chế sinh đẻ do sợ bị phân chia đất đai và do mức sống thấp.

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á

Tổng thuật, lược dịch từ「歴史的に見た人口と家族」、縄田康光、『法律と調査』2006年10月、No.260

 

Tin tức khác

ĐẶC ĐIỂM CỘNG ĐỒNG Ở NHẬT BẢN TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
ĐẶC ĐIỂM CỘNG ĐỒNG Ở NHẬT BẢN TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

Khác với các xã hội nông nghiệp châu Á khác, ở Nhật Bản, cái gọi là cộng đồng “hội phố” có những điểm đặc sắc đáng lưu ý. Nếu như ...

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 3)
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 3)

Thay đổi lớn nhất của gia đình Nhật Bản sau chiến tranh là số con trong các gia đình giảm đi, chứ không phải là sự gia tăng của kiểu gia đình hạt n ...

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 2)
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 2)

Một đặc điểm về dân số của thời kỳ cuối Edo là tỉ lệ sinh thấp một cách đáng kinh ngạc. Vào thời Edo, tỉ lệ sinh tại các vùng có thể dự đo ...

VỊ TRÍ CHÍNH TRỊ VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIÀNH QUYỀN THAM CHÍNH CỦA PHỤ NỮ NHẬT BẢN T ...
VỊ TRÍ CHÍNH TRỊ VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIÀNH QUYỀN THAM CHÍNH CỦA PHỤ NỮ NHẬT BẢN T ...

Địa vị chính trị của phụ nữ Nhật Bản thay đổi theo từng thời đại trong lịch sử. Như thời kỳ Nara (710-794) vẫn còn tàn dư của chế độ mẫu hệ nên phụ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
12 Floor, VASS Building, No. 1 Lieu Giai St., Ba Dinh, Hanoi, Vietnam.
Tel.: 84-4-62730474 Fax.: 84-4-62730478
E-mail: cjs@inas.gov.vn