GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

CỘNG ĐỒNG Ở NHẬT BẢN TỪ 1945 ĐẾN NAY (PHẦN 2)

Đăng ngày: 3-12-2021, 03:54

2.2. Giai đoạn 1970 - cuối thập niên 1990

Trong giai đoạn 1970 đến 1999, cộng đồng xã hội Nhật Bản chuyển dần từ kiểu “cộng đồng truyền thống” sang mô hình “cộng đồng kế hoạch”. Đặc điểm lớn nhất của cộng đồng ở nông thôn và đô thị Nhật Bản lúc này là cộng đồng địa lý truyền thống như hội phố, hội thôn vẫn tiếp tục suy yếu chức năng. Cư dân đô thị thì tập trung vào các mối quan hệ xã hội ở công sở chứ không quan tâm đến sự tồn tại của “cộng đồng địa lý” nơi cư trú, mặt khác, ở vùng nông thôn, tình trạng giảm dân số bắt đầu diễn ra trên diện rộng dẫn đến mất cộng đồng, đặc biệt ở một số địa phương miền núi và đảo xa. Cuối thập niên 1960, nhận thấy “mất cộng đồng” đã trở thành nguy cơ hiện hữu, Bộ Nội vụ Nhật Bản đã thành lập Ban điều tra đời sống quốc dân, và tháng 9/1969 ban này đưa ra một báo cáo chấn động mang tên “Cộng đồng - Phục hồi tình người trong cuộc sống”, trong đó cho rằng sự phát triển kinh tế cao độ đã làm mất đi những giá trị truyền thống, trong đó có tính cộng đồng, đòi hỏi “phải sáng tạo ra những cộng đồng mới”. Bản báo cáo nhấn mạnh việc xây dựng những “cộng đồng kiểu mẫu”, được quy hoạch bởi hệ thống chính trị - hành chính, người dân tham gia lên kế hoạch cho các hoạt động cộng đồng, nhà nước hỗ trợ kinh phí. Năm 1971, Bộ Nội vụ mô phỏng cộng đồng kiểu mới như sau[1]:

1- Mỗi địa phương đều phải thử nghiệm xây dựng “cộng đồng kiểu mẫu”.

2- Bản đồ, đồ thị về cộng đồng kiểu mẫu được tuyển chọn bởi sự tham vấn và quyết định của lãnh đạo tỉnh, thành phố và trưởng các phố, thôn, xóm.

3- Bản đồ của cộng đồng kiểu mẫu dựa trên quy mô của khu vực có các trường tiểu học (lấy trường tiểu học làm trung tâm cộng đồng mới).

4- Trưởng các khu phố, thôn, làng xác định kế hoạch xây dựng và phát triển cộng đồng, trên cơ sở có sự tham gia của người dân.

5- Người dân (cư dân) trong khu vực quyết định kế hoạch liên quan đến các hoạt động của cộng đồng.

6- Nhà nước ủng hộ bằng cách hỗ trợ về mặt kinh phí, nhưng đề cao trách nhiệm của địa phương trong việc xây dựng cộng đồng mới dựa trên kế hoạch được địa phương đó đưa ra.

7- Nhà nước thành lập Hiệp hội nghiên cứu nhằm tổ chức nghiên cứu, điều tra, đánh giá về cộng đồng và chỉ đạo việc thực hiện các chính sách liên quan đến kế hoạch cộng đồng kiểu mẫu.

Tuy nhiên, thực trạng cộng đồng những năm 1970-1990 tuy có được cải thiện về số lượng các tổ chức cộng đồng, nhưng sự suy giảm tính cộng đồng thì vẫn không có gì thay đổi. Người dân không hào hứng tham gia công việc của cộng đồng, tầng lớp “cư dân vô cảm” và “xã hội thiếu liên kết” vẫn tiếp tục là những vấn đề nổi cộm của cộng đồng xã hội ở Nhật Bản. Chúng ta có thể nghĩ đến một số nguyên nhân như sau:

Thứ nhất, từ những năm 1970, TV, mạng internet, và sau này là điện thoại di động được phổ cập đã phá vỡ sự bó hẹp của không gian “làng” hay “phố”, người dân có điều kiện giao lưu ra ngoài “biên giới” của làng, thậm chí vượt cả biên giới quốc gia. Cuộc sống hiện đại và các mối quan hệ phong phú đã lấy đi cái cảm giác cần phải dựa vào những người xung quanh, hàng xóm, láng giềng để sinh sống, tính cộng đồng từ đó suy giảm. Trong khi đó, lối sống độc thân tiếp tục tăng cao, vào cuối những năm 1990, tỉ lệ hộ độc thân đã chiếm tới 25% hộ gia đình ở Nhật Bản, việc ưu tiên sự riêng tư, cá nhân, ngại giao tiếp với hàng xóm tiếp tục tăng. Lối sống độc thân, nhà ở cách xa nơi làm việc cũng làm hình thành những “cư dân bóng đêm” - những người đi làm cả ngày và chỉ trở về nhà vào buổi tối, họ không quan tâm đến cộng đồng nơi cư trú, và tất nhiên, không đóng góp gì cho cộng đồng. Chính vì vậy, cộng đồng địa lý truyền thống, với đặc điểm chủ yếu là sự liên kết chặt chẽ giữa những cư dân sống trong cùng một khu vực địa lý (hàng xóm, láng giềng) do mất dần sự liên kết giữa các thành viên trong cộng đồng, tất yếu dẫn tới tan rã.

Bên cạnh đó, còn một nguyên nhân khác, đó là sự can thiệp vội vàng và có phần thô bạo của nhà nước vào sự tồn tại của cộng đồng. Các “Kế hoạch phát triển cộng đồng mới” dựa trên lý thuyết về tính giai đoạn, trong đó cho rằng kiểu cộng đồng truyền thống đã chấm dứt sứ mệnh lịch sử của nó, cần phải xây dựng cộng đồng kiểu mới và kế hoạch xây dựng cộng đồng do nhà nước chỉ đạo đã bỏ qua sự tồn tại lâu dài, bền bỉ của cộng đồng truyền thống như hội phố, hội thôn… Kết quả là kiểu “cộng đồng kế hoạch”, hay nói cách khác là mô hình “top-down” - từ trên xuống này lại càng phá vỡ cộng đồng truyền thống. “Cộng đồng kế hoạch” cũng cho thấy sự bất cập, khi mà “các cư dân như những người lạ trong chính ngôi nhà của mình”, bởi cộng đồng không lập ra theo ý chí hay nguyện vọng của họ, mà do sự quy hoạch của chính quyền, bên cạnh đó là gánh nặng tài chính mà chính phủ phải chi trả cho các quy hoạch cộng đồng, và cuối cùng, kiểu cộng đồng này cũng không thực sự phát huy được vai trò của nó.

2.3. Giai đoạn 2000-nay

Đặc điểm của cộng đồng xã hội Nhật Bản giai đoạn từ thập niên 2000 đến nay là từ kiểu “cộng đồng truyền thống”, “cộng đồng kế hoạch” chuyển sang “cộng đồng xã hội dân sự”, giai đoạn này có sự phát triển cả về lượng và về chất của các tổ chức dân sự NPO, các tổ chức tình nguyện, các nhóm xã hội… Theo thống kê, có tới 91.201 đoàn thể xã hội và 23.403 tổ chức dân sự như NPO (Non Profit Organization), hội, nhóm từ thiện được thành lập mới trong giai đoạn đầu thập niên 2000, chiếm khoảng 1/3 tổng số các tổ chức cộng đồng ở Nhật Bản.

Bảng 1: Thống kê chung về các tổ chức cộng đồng

– Bức tranh xã hội dân sự Nhật Bản[2]

 

Số tổ chức

Đoàn thể xã hội đang tồn tại (thống kê theo danh bạ điện thoại toàn quốc năm 2008)

91.101

Các tổ chức mới xuất hiện (toàn bộ tổ chức NPO có đăng ký pháp nhân)

23.403

Các tổ chức cộng đồng truyền thống (hội tự trị, hội phố)

296.770

Bảng trên thể hiện con số tổ chức cộng đồng hiện nay ở Nhật Bản. Có thể thấy các tổ chức cộng đồng truyền thống như hội tự trị, hội phố vẫn chiếm đại đa số, ngoài ra có thêm các đoàn thể xã hội và các tổ chức phi lợi nhuận NPO… Mặc dù chính phủ đã thực hiện một số chính sách phát triển cộng đồng trong suốt những thập kỷ 1980-1990, nhưng dường như không có cuộc “cách mạng” nào đáng kể đối với sự phát triển của các tổ chức cộng đồng, ngoại trừ sự ra đời của hàng loạt tổ chức NPO cuối thập niên 1990, đầu những năm 2000.

Sự kiện quan trọng, tác động đến sự ra đời của hàng loạt tổ chức NPO trong giai đoạn đầu thập niên 2000 là trận động đất Hanshin-Awaji mà trung tâm là thành phố Kobe vào ngày 17/1/1995, gây ra thương vong lớn với hơn 6.000 người chết và 40.000 người bị thương, thành phố Kobe gần như bị phá hủy hoàn toàn. Sau trận động đất, bộ máy hành chính công (cảnh sát, cứu hỏa…) gần như tê liệt, trong khi các hoạt động tình nguyện diễn ra sôi nổi, việc cứu trợ chủ yếu dựa vào đội quân tình nguyện và cộng đồng dân cư như hội phố, hội thôn, xóm… Sau sự kiện này, các hoạt động cống hiến cho xã hội như hoạt động thiện nguyện của tổ chức phi lợi nhuận NPO đã trở nên phổ biến. Hoạt động của các tổ chức NPO trải khắp mọi lĩnh vực từ phúc lợi xã hội, văn hóa - giáo dục đến xây dựng thành phố, bảo vệ môi trường... Năm 1998,  chính phủ Nhật Bản đã ban hành “Luật xúc tiến các hoạt động phi lợi nhuận đặc biệt” (gọi tắt là Luật NPO), nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động cống hiến cho xã hội, khuyến khích người dân được tự do tiến hành các hoạt động này, và cung cấp tư cách pháp nhân cho các tổ chức thực hiện. Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, tính đến năm 2015 đã có 32.350 tổ chức NPO đăng ký tư cách pháp nhân, ngoài ra,  các đoàn thể được Nội các công nhận là 2.813 đoàn thể, tổng cộng có 35.163 tổ chức NPO. Tất nhiên, ngoài các tổ chức được công nhận, vẫn còn tồn tại rất nhiều tổ chức NPO chưa có tư cách pháp nhân.

Tuy nhiên, giai đoạn này Nhật Bản vẫn tiếp tục đối mặt với những vấn đề liên quan mật thiết đến sự tồn vong của cộng đồng, đó là sự suy giảm dân số nghiêm trọng bắt đầu từ năm 2008, hoang hóa và biết mất một số ngôi làng do già hóa và giảm dân số. Cộng đồng tại các đô thị vừa và nhỏ cũng đối mặt với vấn đề giảm chức năng cộng đồng, dẫn đến mất cộng đồng do sự thay đổi lối sống, thói quen tiêu dùng của người dân, các phố bán hàng truyền thống phải giải thể, không gian chung của cộng đồng không còn nữa, tính cộng đồng suy yếu…

Hình 1: Tình trạng giảm dân số ở các địa phương của Nhật Bản[3]

Năm 2005

 

Năm 2015

 

Màu đỏ: tăng dân số trên 1%

Màu nâu: tăng dân số từ 0% đến 1%

Màu vàng: giảm dân số từ 0% đến 1%

Màu xanh lá mạ: giảm dân số từ 1% đến 2%

Màu xanh da trời: giảm dân số trên 2%

Màu đỏ: tăng dân số trên 1%

Màu nâu: tăng dân số từ 0% đến 1%

Màu vàng: giảm dân số từ 0% đến 1%

Màu xanh lá mạ: giảm dân số từ 1% đến 2%

Màu xanh da trời: giảm dân số trên 2%

Nhìn trên hình 1, có thể thấy tình trạng giảm dân số đang diễn ra trên toàn nước Nhật. Rõ nhất là tỉnh Hokkaido, hòn đảo phía Bắc Nhật Bản, nếu như năm 2005 hòn đảo này bước vào thời kỳ giảm dân số trên 1%/năm, thì từ 2015 giảm dân số trên 2%/năm. Màu xanh da trời thể hiện sự giảm dân số ở mức cao, đã bao phủ gần như toàn bộ nước Nhật từ năm 2015. Theo báo cáo của Bộ Nội vụ Nhật Bản, hiện nay các vùng đất ít người, nếu tính theo tỉ lệ dân số thì chỉ chiếm chưa đầy 8% dân số, nhưng xét về mặt diện tích thì chiếm tới 50% diện tích lãnh thổ Nhật Bản, chiếm ¼ cộng đồng thôn, làng, phố. Tình trạng dân cư thưa thớt kéo theo sự tan rã của sản xuất, hủy hoại môi trường sống, điều này lại càng làm cho tình trạng hoang hóa thêm trầm trọng, và cuối cùng, cộng đồng ở những khu vực này dần mất đi chức năng của mình, tính cộng đồng biến mất, làng cũng tiêu biến. Theo Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch Nhật Bản, có khoảng 15% cộng đồng (8.859 cộng đồng) ở Nhật Bản hiện đang mất dần chức năng, hoạt động kém, rất khó để duy trì sự tồn tại của chúng. Quy mô cộng đồng thu hẹp và tình trạng già hóa trọng cộng đồng ngày càng trầm trọng. Đặc biệt, những cộng đồng có quy mô nhỏ và tỉ lệ người già cao, xu hướng tan rã là khó tránh khỏi. Hiện nay, có gần ½ số làng dưới 10 hộ dân và có khoảng 40% làng có tỉ lệ người già trên 50% rơi vào tình trạng chức năng cộng đồng giảm sút, khó có khả năng duy trì sự tồn tại của cộng đồng. Dự báo trong 10 năm tới, có 423 ngôi làng sẽ biến mất, chiếm 4,2% trên tổng số các ngôi làng ở Nhật Bản (2.634 thôn, làng)[4]. Sự đổ vỡ cộng đồng khu vực sẽ kéo theo hệ lụy là những cư dân còn lại trong cộng đồng rất khó duy trì cuộc sống do thiếu vắng các dịch vụ đời sống thiết yếu như dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe…, cuối cùng, những người già còn lại cũng phải bỏ làng mà ra đi, dẫn tới nhiều ngôi làng thực sự bị xóa sổ.

Như vậy, trong giai đoạn năm 2000 đến nay, cộng đồng ở Nhật Bản đã chuyển từ mô hình truyền thống sang xã hội dân sự với sự ra đời của hàng loạt tổ chức NPO. Tuy nhiên, Nhật Bản cũng đang phải đối mặt với vấn đề giảm dân số dẫn tới mất làng, mất cộng đồng. Cộng đồng truyền thống mất đi, nhưng các tổ chức dân sự mới lại phát triển mạnh mẽ. Có thể nói, sự phát triển của xã hội dân sự chính là đặc điểm chủ yếu của giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, hoạt động của các tổ chức dân sự mới có ảnh hưởng như thế nào đến sự tồn tại của cộng đồng truyền thống (hội phố, hội thôn và các hội tự trị...)? Làm thế nào để tất cả các tổ chức cộng đồng đều phát huy được vai trò, cống hiến cho sự phát triển của địa phương, đó là bài toán mà chính phủ và người dân Nhật Bản vẫn đang tìm lời giải đáp.

Kết luận

Cộng đồng ở Nhật Bản đã có những thay đổi mạnh mẽ kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay. Cộng đồng địa lý truyền thống mà trung tâm là “hội phố”, “hội thôn”, làng, dưới ảnh hưởng của đô thị hóa, hiện đại hóa và sau này là già hóa dân số, đã mất dần chức năng trọng tâm là kết nối cư dân địa phương, đảm bảo cho họ “phúc lợi xã hội” và đời sống an tâm, an toàn. Vào những năm 1970, chính phủ Nhật Bản đã có những chính sách hỗ trợ phát triển cộng đồng, xây dựng cộng đồng theo quy hoạch hiện đại, tuy nhiên, những cố gắng này không đem lại hiệu quả cao, khi cộng đồng bị “áp đặt” từ trên xuống, không phù hợp với mong muốn của cư dân, khiến cho cư dân trở thành “những người xa lạ trong chính ngôi nhà của mình”. Bước vào thập niên 1990, các tổ chức dân sự mà tiêu biểu là NPO phát triển mạnh mẽ, cộng đồng kiểu “bottom-up” này dường như vừa bù lấp được khoảng trống của việc thiếu vắng sự liên kết và “tình người” trong xã hội hiện đại, lại vừa đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng và sở thích của người dân bởi những tổ chức này do người dân tự thành lập và vận hành, đồng thời cũng giảm thiểu gánh nặng cho bộ máy hành chính công địa phương. Tuy nhiên, làm thế nào để vừa duy trì những cộng đồng truyền thống bám rễ lâu đời ở nông thôn, vừa tạo điều kiện cho các tổ chức cộng đồng mới phát triển, tổng hợp và phát huy sức mạnh của tất cả các tổ chức cộng đồng nhằm mục tiêu phát triển địa phương, đó là bài toán cho thập niên tiếp theo ở Nhật Bản.

Việt Nam ta đang trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cộng đồng truyền thống ở nông thôn và đô thị Việt Nam cũng gặp phải những vấn đề mà xã hội Nhật Bản đã trải qua trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng cao, đó là việc làm thế nào để cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo lưu những giá trị truyền thống tốt đẹp của cộng đồng, làm thế nào để người dân phát huy sức mạnh cộng đồng, cùng với chính quyền cải tạo các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng địa phương nói riêng và đất nước nói chung. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của Nhật Bản, một quốc gia châu Á phát triển, nhưng lại có những điểm tương đồng về văn hóa, xã hội với Việt Nam là việc làm cần thiết./.

 

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Tài liệu tham khảo

1. Lương Hồng Quang, Phát triển văn hóa dựa vào cộng đồng: các tranh luận lý thuyết và thực tiễn, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, NXB.Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018

2. Ngô Hương Lan, “Tình hình dân số và gia đình Nhật Bản giai đoạn trước thập niên 1990”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 3/2020 (229)

3. Ngô Hương Lan, “Tình hình vốn xã hội ở Nhật Bản hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 7/2018 (209)

4. Ngô Hương Lan, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 2021 "Cộng đồng xã hội Nhật Bản từ 1945 đến nay", Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, 2021.

5. Phạm Hồng Tung, “Cộng đồng: khái niệm, cách tiếp cận và phân loại trong nghiên cứu”, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội số 12/2009

6. 今西一、『近代日本の地域社会』、日本経済評論社出版、2009年 (Imanishi Hajime, Cộng đồng địa phương Nhật Bản hiện đại, NXB.Nihon keizai Hyoronsha, 2009)

7. 山内一宏、「少子高齢化時代におけるコミュニティの役割-地域コミュニティの再生-」『法律調査誌』288号、2009年  (Yamauchi Kazuhiro, “Vai trò của cộng đồng trong thời đại già hóa dân số, ít trẻ em: Phục hồi cộng đồng địa phương”, Tạp chí Pháp luật và Điều tra số 288, năm 2009)

8. 横道清孝、「日本における最近のコミュニティー政策」、自治体国際化協会政策研究大学院大学、自治体関係の動きに関する資料3.2009 (Yokomichi Kyotaka, “Chính sách cộng đồng hiện nay”, Tư liệu về sự chuyển biến của các tổ chức tự trị, Hiệp hội Quốc tế hóa tổ chức tự trị, Trung tâm Nghiên cứu so sánh tự trị địa phương, 3.2009)

9. 『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年 (Dân số Nhật Bản - Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988)

10. 『現代日本人の意識構造』、NHK Books, 東京、2010 (Ý thức người Nhật Bản hiện đại, NXB.NHK Books, Tokyo, 2010)

11.  『平成27年版厚生労働白書ー人口減少社会を考えるー』、厚生労働省、2015 (Sách trắng về Y tế Phúc lợi, Bộ Y tế Phúc lợi Nhật Bản, 2015)

12. Website Văn phòng Nội các Nhật Bản:

https://warp.da.ndl.go.jp/info:ndljp/pid/10361265/www5.cao.go.jp/seikatsu/senkoudo/senkoudo.html

 



[1] 自治省(現総務省)「コミュニティー(近隣社会)に関する対策要綱」、1971年4月3日 (Bộ Tự trị (nay là Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản), “Yếu lĩnh về cộng đồng”, ngày 3/4/1971).

[2] Nguồn: Nguồn: “Điều tra toàn quốc về các tổ chức tự trị 2006-2007”, Hiệp hội nghiên cứu cộng đồng mới Nhật Bản, 2008, tr.5.

[3] Nguồn:Website Văn phòng Nội các Nhật Bản, truy cập ngày 26/08/2021: https://warp.da.ndl.go.jp/info:ndljp/pid/10361265/www5.cao.go.jp/seikatsu/senkoudo/senkoudo.html

[4] Yamauchi Kazuhiro, “Vai trò của cộng đồng trong thời đại già hóa dân số, ít trẻ em: Phục hồi cộng đồng địa phương”, Tạp chí Pháp luật và Điều tra số 288, năm 2009, tr.191.

Tin tức khác

CỘNG ĐỒNG Ở NHẬT BẢN TỪ 1945 ĐẾN NAY (Phần 1)
CỘNG ĐỒNG Ở NHẬT BẢN TỪ 1945 ĐẾN NAY (Phần 1)

Trong những năm gần đây, cộng đồng và phát triển cộng đồng đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu tại các quốc gia, trong đó có ...

ĐẶC ĐIỂM CỘNG ĐỒNG Ở NHẬT BẢN TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
ĐẶC ĐIỂM CỘNG ĐỒNG Ở NHẬT BẢN TRƯỚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

Khác với các xã hội nông nghiệp châu Á khác, ở Nhật Bản, cái gọi là cộng đồng “hội phố” có những điểm đặc sắc đáng lưu ý. Nếu như ...

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 3)
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 3)

Thay đổi lớn nhất của gia đình Nhật Bản sau chiến tranh là số con trong các gia đình giảm đi, chứ không phải là sự gia tăng của kiểu gia đình hạt n ...

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 2)
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ NHẬT BẢN (phần 2)

Một đặc điểm về dân số của thời kỳ cuối Edo là tỉ lệ sinh thấp một cách đáng kinh ngạc. Vào thời Edo, tỉ lệ sinh tại các vùng có thể dự đo ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn