GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

VÀI NÉT VỀ LAO ĐỘNG KHÔNG CHÍNH THỨC Ở NHẬT BẢN

Đăng ngày: 12-08-2022, 02:52

Trong thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước, Nhật Bản được biết tới như một xã hội “trăm triệu người trung lưu”. Theo thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, khi đó sự chênh lệch về kinh tế ở Nhật Bản khá nhỏ, giống các nước Bắc Âu. Trong các cuộc điều tra dư luận do chính phủ thực hiện, khoảng 90% số người được hỏi cảm thấy họ đang ở mức sống trung bình. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong một thập kỷ rưỡi từ cuối những năm 1950 đã giúp mức sống nâng cao đáng kể, và phần lớn người Nhật tự xếp mình thuộc tầng lớp trung lưu. Tuy vậy, càng về sau, sự chênh lệch ở Nhật Bản tăng lên nhanh chóng. Theo hệ số Gini[1], Nhật Bản đã đạt được hệ số này thấp nhất vào năm 1980 với 0,349; nhưng sau đó lại tăng dần lên 0,498 vào năm 2001 và 0,559 vào năm 2016. Tỷ lệ nghèo ở Nhật Bản hiện nay đứng thứ hai trong số các quốc gia thuộc G7. Nhật Bản không còn là xã hội với “trăm triệu người trung lưu” nữa mà đã trở thành một xã hội phân tầng, với “tầng lớp dưới” (Underclass) bao gồm cả những lao động không chính thức của Nhật Bản. “Không chính thức” (Non-regular) có nghĩa là những nhân viên này không được đảm bảo, họ kiếm được tiền ít hơn đáng kể. Hiện nay có khoảng  9 triệu người như vậy ở Nhật, chiếm 14 phần trăm trong số tổng lao động [2].

1. Sự gia tăng của lao động không chính thức

Trong thời kỳ kinh tế bong bóng của Nhật Bản vào cuối những năm 1980, sự phân hóa  bắt đầu xuất hiện trong tầng lớp công nhân. Khi đó, các công ty phải tăng quy mô lực lượng lao động, nhưng nếu họ thuê nhân viên toàn thời gian, họ không thể sa thải họ khi nền kinh tế suy thoái. Vì vậy họ hướng tới việc thuê các sinh viên trẻ mới tốt nghiệp làm lao động không chính thức. Thời đó, những người trẻ tuổi như vậy được gọi là “những người tự do” (furita , xuất phát từ chữ freeter, ghép từ chữ “free” – tự do trong tiếng Anh và từ “Arbeiter” – công nhân trong tiếng Đức). Trước đó, nhiều phụ nữ đã kết hôn cũng được thuê làm lao động không chính thức.

Sau đó là cuộc khủng hoảng kinh tế do bong bóng vỡ vào đầu những năm 1990. Các công ty giảm số lượng nhân viên mới tuyển dụng và tăng cường thuê sinh viên mới tốt nghiệp với tư cách là lao động không chính thức, thay vì toàn thời gian. Xu hướng này tăng lên đáng kể vào cuối những năm 1990, nhiều sinh viên trẻ mới tốt nghiệp không thể tìm được việc làm chính thức, đánh dấu sự khởi đầu của “kỷ băng hà việc làm” (就職氷河期). Đặc biệt, những người tốt nghiệp trung học từ năm 1999 đến năm 2004, ở tầm tuổi gần 40 tuổi, là những người gặp khó khăn nhất khi tìm một việc làm chính thức. Khác với hiện tượng khá đông sinh viên mới ra trường ở Bắc Mỹ và nhiều nước châu Âu không thể tìm được việc làm chính thức ngay lập tức, đây là lần đầu tiên điều này xảy ra ở Nhật Bản kể từ sau Chiến tranh Thế giới II. “Kỷ băng hà việc làm” khiến nhiều người không bao giờ kiếm được việc làm chính thức, luôn nhận mức lương thấp và  không thường xuyên.

Theo đánh giá, hệ thống lao động Nhật Bản đã có những thay đổi đáng kể trong những năm 1990. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên và các loại hình lao động không chính thức phát triển, quyền lực của các liên đoàn lao động lại bị suy giảm. Hơn nữa, khả năng có việc làm suốt đời đã giảm xuống. Các công việc chính thức toàn nêu ra giới hạn độ tuổi là 34 tuổi. Ngoài ra, việc chuyển đổi từ công việc không chính thức sang một vị trí chính thức cũng không dễ dàng, các doanh nghiệp muốn thuê lao động trẻ từ đầu hơn những nhân viên đã được tuyển dụng làm  lao động không chính thức. Những thay đổi này của thị trường việc làm đã có tác động mạnh mẽ đến xã hội, như gia tăng các vụ tự tử vào khoảng cuối những năm 1990. Khoảng cách thu nhập giữa lao động chính thức và lao động không chính thức khá rõ ràng, vào năm 2003 thì thu nhập trung bình một tháng của một lao động chính thức khoảng 33,2 vạn Yên, trong khi một lao động thời vụ chỉ có 15,1 vạn Yên. Trong cùng một công việc cũng có khoảng cách giữa lao động chính thức và không chính thức, ví dụ như nhân viên điều phối (Dispatched Worker) chính thức thu nhập một tháng năm 2003 là 25,3 vạn Yên, trong khi nhân viên điều phối không chính thức chỉ có 21,8 vạn Yên[3]. Hơn nữa, thu nhập của những lao động chính thức tăng theo độ tuổi, trái ngược với thu nhập của những người lao động không chính thức, khi tuổi càng lớn thì thu nhập càng giảm.

Theo số liệu các cuộc Điều tra đặc biệt về lực lượng lao động và Bản phân loại chi tiết điều tra lực lượng lao động từ năm 1993 cho đến năm 2012 của Viện Đào tạo và Chính sách Lao động Nhật Bản (Japan Institute for Labour Policy and Training - JILPT), tỷ lệ lao động chính thức đã giảm từ 79,2% năm 1993 xuống còn 64,8% năm 2012. Trong khi tỷ lệ lao động không chính thức, bao gồm nhân viên bán thời gian, nhân viên làm việc tự do và những kiểu nhân viên khác đã tăng từ 20,8% năm 1993 lên 35,1% năm 2012. Điều đó cho thấy thị trường lao động không chính thức Nhật Bản đã gia tăng đáng kể trong những thập kỷ vừa qua, cùng lúc có sự sụt giảm khá rõ về đội ngũ lao động chính thức. Trên thực tế, có thể thấy sự gia tăng đáng kể về số lượng lao động không chính thức, đặc biệt là sau năm 1999, năm Luật Sửa đổi Nơi Làm Việc Tạm Thời (Amendment to Temporary Work Agency Law) [4] được thông qua. Tỷ lệ lao động không chính thức tăng vọt sau năm 1999, ví dụ sau 10 năm, con số này đã chiếm 33,7 % lực lượng lao động vào năm 2009.

Theo bản điều tra “Khảo sát về đa dạng hóa việc làm” do Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi thực hiện năm 2014, tỷ lệ người lao động không chính thức cho rằng họ hài lòng hoặc phần nào hài lòng với công việc của chỉ có 42,6%. Ngoài ra, lao động không chính thức có ít cơ hội phát triển kỹ năng hơn lao động chính thức. Trong bản điều tra “Khảo sát toàn diện về điều kiện việc làm của Người Nhật Bản” năm 2009 do Viện Đào tạo và Chính sách Lao động Nhật Bản (JILPT) thực hiện, thì 54,9% lao động chính thức cho rằng công việc hiện tại của họ có nhiều cơ hội mở rộng phạm vi công việc, trong khi chỉ có 40,5% lao động không chính thức đưa ra câu trả lời tương tự.

2. Lao động không chính thức dưới ảnh hưởng của đại dịch Covid-19

Đại dịch Covid-19 càng khiến lao động không chính thức thêm khó khăn.Theo Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi, tỷ lệ có việc làm trên tổng số người nộp đơn xin việc năm tài chính 2020 (từ ngày 010/4/2020 tới hết ngày 31/03/2021) có ​​sự sụt giảm lớn nhất trong 46 năm, với mức giảm 0,45 điểm xuống 1,10; do việc tạm dừng tuyển dụng nhân viên của các doanh nghiệp. Tỷ lệ không có việc làm do Bộ Nội vụ và Truyền thông công bố ở mức 2,9%, tăng 0,6% so với năm tài chính 2019, cũng là mức tăng đầu tiên kể từ năm 2009, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Số lượng người thất nghiệp trong năm tài chính 2020 tăng 360.000 người lên 1,98 triệu người. Theo Tokyo Shoko Research- công ty báo cáo tín dụng hàng đầu của Nhật, số vụ phá sản trong lĩnh vực nhà hàng chiếm khoảng 18% và trong lĩnh vực xây dựng - vốn phải đối mặt với sự trì hoãn và việc hủy bỏ nhiều dự án- chiếm khoảng 10% số vụ phá sản. Tầng lớp trung lưu truyền thống thu nhập một năm giảm 15,8%, từ 8,05 triệu Yên vào năm 2019 xuống 6,78 triệu Yên vào năm 2020, và tầng lớp dưới (Underclass) giảm 12% từ 4,46 triệu yên xuống 3,93 triệu yên. Về tỷ lệ nghèo - chỉ số đề cập đến những người có thu nhập hộ gia đình thấp hơn một nửa mức trung bình của toàn bộ dân số - tầng lớp dưới chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, với số liệu tăng từ 32,7% lên 38% [5] .

Qua những số liệu trên, chúng ta có thể hình dung phần nào về lực lượng lao động không chính thức của Nhật Bản, về hoàn cảnh ra đời, những thiệt thòi cũng như thách thức của họ trong bối cảnh đại dịch gần đây. Vấn đề lao động không chính thức ở Nhật Bản luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu xã hội, nhất là khi số lượng của họ có chiều hướng gia tăng do đại dịch Covid-19, kéo theo những hệ lụy không dễ gì giải quyết một sớm một chiều.

Chú thích:

[1] Hệ số Gini thường được sử dụng để biểu thị mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp cư dân. Số 0 tượng trưng cho sự bình đẳng thu nhập tuyệt đối (mọi người đều có cùng một mức thu nhập), số 1 tượng trưng cho sự bất bình đẳng thu nhập tuyệt đối (một người có toàn bộ thu nhập, trong khi tất cả mọi người khác không có thu nhập).

[2] Nguồn: The Challenges Facing Japan’s Underclass,

https://www.nippon.com/en/in-depth/d00691/

[3] Nguồn: Điều tra “Khảo sát về đa dạng hóa việc làm” năm 2004, do Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi thực hiện.

[4] Luật Sửa đổi Nơi Làm Việc Tạm Thời được ban hành năm 1999, thiết lập hệ thống danh sách công việc bị cấm, và cho phép tất cả các ngành nghề có thể tuyển lao động tạm thời, ngoại trừ những công việc trong danh sách công việc bị cấm.

[5] Nguồn:Japan’s growing ‘underclass’ creaks under weight of pandemic,

https://www.japantimes.co.jp/news/2021/09/30/national/pandemic-wealth-gap/


Nguyễn Ngọc Phương Trang

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Viviana Papasidero (2019), The Freeter Phenomenon in the Japanese Labour Market, Faculty: Faculty of Humanities; Specialisation: Politics, Society and Economy of Asia (MA) (60EC), Leiden University, Hollan.

2. Daisuke Kobayashi (2011),「フリーター」のタイプと出身階層 (Phân loại xuất thân và các dạng của furita, tuyển tập Lý luận và Phương pháp, số 2(26)/2011, Học hội Xã hội học Toán học Nhật Bản, tr. 287-302.

3. Are Furita Becoming a Problem in Japan?,

https://guidable.co/work/freeters-are-furita-becoming-a-problem-in-japan/

4. The Challenges Facing Japan’s Underclass,

https://www.nippon.com/en/in-depth/d00691/

5. The Freelance Revolution Comes To Japan,

https://www.forbes.com/sites/jonyounger/2019/03/09/the-freelance-revolution-comes-to-japan-an-update/?sh=4e4b49d11f7d

6. Japan’s growing ‘underclass’ creaks under weight of pandemic,

https://www.japantimes.co.jp/news/2021/09/30/national/pandemic-wealth-gap/

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn