GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Xã hội


GIÁO PHÁI TENRI Ở NHẬT BẢN (phần 2)
  1. 2. Một số đặc điểm của Tenrikyo


GIÁO PHÁI TENRI Ở NHẬT BẢN (phần 1)

Nhật Bản là một đất nước đa tôn giáo. Bên cạnh những tôn giáo lớn truyền thống, có lịch sử lâu đời như Thần đạo, Phật giáo và Kito giáo còn có hàng trăm các tôn giáo có quy mô nhỏ và thời gian xuất hiện muộn hơn thường được gọi là các tôn giáo mới. Các tôn giáo ở Nhật Bản tồn tại bên nhau một cách hòa bình tạo nên một diện mạo đời sống tôn giáo rất đa dạng. Để góp phần tìm hiểu đời sống tôn giáo ở Nhật Bản hiện nay, bài viết này giới thiệu về giáo phái Tenri - một trong mười tôn giáo mới lớn nhất của Nhật Bản.



RÀO CẢN NGÔN NGỮ ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở NHẬT BẢN

Điều quan trọng đối với một người khi sinh sống và làm việc tại một đất nước khác là phải hiểu được ngôn ngữ của đất nước đó. Càng hiểu và sử dụng tốt ngôn ngữ bản xứ, cơ hội kiếm tìm việc làm của họ càng rộng mở. Tại các quốc gia phát triển, người lao động nước ngoài trong thời gian đầu được phân làm tại những bộ phận công việc chân tay đơn giản khi khả năng giao tiếp còn hạn chế. Những công việc chân tay kiểu này có lượng cầu lao động khá cao, song vấn đề phát sinh chính là khả năng phát triển của người lao động. Để đi từ dạng lao động giản đơn đến lao động phức tạp, hay để chọn lựa được nghề nghiệp một cách đa dạng thì khả năng sử dụng ngoại ngữ nước bản xứ trở thành điều tối cần thiết.



Tôn giáo và văn hóa người nước ngoài tại Nhật Bản

Người ta nhận thấy các thành phố lớn ở Tây Âu tập trung khá đông dân nhập cư từ Châu Á, Châu Phi, đặc biệt là dân Đạo hồi. Tại một số vùng, tình hình khủng hoảng kinh tế cộng với sự không hiểu ngôn ngữ lẫn nhau đã làm dấy lên những phong trào như “Tẩy chay người nước ngoài” hay “Chống đạo Hồi”. Vì thế, tại những khu vực có người Hồi giáo sinh sống, họ xây nhiều nhà thờ làm nơi định cư và duy trì phong tục tập quán của mình. Vì thế, hầu như sự đối lập cơ bản giữa người bản xứ và người nước ngoài là đối lập về mặt tôn giáo. Ở Nhật Bản, Thiên chúa giáo là một tôn giáo mới, sau khi du nhập có nhiều đối tượng sùng bái nhưng cũng không có nhiều  đối tượng bài xích. Cũng giống như vậy, dân Đạo Hồi sinh sống tại Nhật trước đây chỉ giới hạn trong một bộ phận người Iran, Banglades, Pakistan, Malaysia nhưng vài năm gần đây số lượng này tăng lên đáng kể.



Vấn đề sức khỏe tinh thần của những công chức Nhật Bản vùng chịu thảm họa sóng thần

Đã gần hai năm kể từ khi thảm họa động đất sóng thần xảy ra tại vùng đông bắc Nhật Bản, song những hậu quả của nó vẫn gây tác động tiêu cực đến cả đời sống vật chất cũng như tinh thần người dân Nhật Bản, đặc biệt là đối với những người sinh sống tại vùng chịu thảm họa. Ngày 24 tháng 8 năm 2012, tổ chức lao động chính quyền địa phương đã công bố kết quả bảng điều tra Sức khỏe tinh thần đối cán bộ công chức vùng chịu thảm họa.



Vấn đề đãi ngộ trong tuyển dụng lao động ở Nhật Bản

Một trong những vấn đề lớn trong tuyển dụng ở Nhật Bản là sự chậm trễ trong cải thiện lương bổng so với lợi nhuận của doanh nghiệp thu được trong quá trình hồi phục hiện nay. Các chuyên gia đánh giá vấn đề này căn cứ theo nhiều tiêu chí (ví dụ như chỉ số lương Laspeyres,…), cùng với kết quả kiểm tra về thay đổi lương làm thêm ngoài giờ trong các ngành được xác định bởi viện chính sách lao động và đào tạo Nhật Bản (JILPT).



Khác biệt giữa lao động chính thức và không chính thức tại Nhật Bản

Người ta nhận thấy rằng tại Nhật Bản hiện nay, sự gia tăng số lao động không chính thức và sự khác biệt về lương so với lao động chính thức ngày càng lớn. Các hoạt động cắt giảm chi phí cố định của các công ty cùng với những thay đổi trong quan niệm của người lao động là các nhân tố khiến tỉ lệ số nhân viên không chính thức chiếm tới hơn 30% tổng số lao động. Một vấn đề đặt ra ở đây là sự giảm đột ngột tỉ lệ lao động trẻ trong số lao động chính thức kể từ giữa những năm 1990. Rất nhiều người không thể tìm công việc chính thức trong suốt thời kỳ “tuyển dụng bị đóng băng” và trong giai đoạn suy thoái trở thành lao động không chính thức hoặc không có việc làm. Ngoài ra, số “lao động tự do” (những lao động bán thời gian) đã giảm 4 năm liên tục cho đến năm 2003 nhưng hiện vẫn ở mức cao.



Nhật Bản ổn định công việc cho lao động không chính thức

Sau chiến tranh, với sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp, nguồn nhân lực trở nên thiếu hụt và các công ty Nhật Bản phải tuyển dụng những phụ nữ vốn chỉ tập trung vào nội trợ gia đình làm lao động bán thời gian. Tiếp đó, khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ vào năm 1991, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế khiến nhiều công ty phải cắt giảm chi phí lao động bằng cách tuyển dụng lao động không chính thức ( 非正社員 ). Đến nay, lao động chính thức và không chính thức dường như đã trở thành hai khái niệm phổ biến trong xã hội Nhật Bản.



Xu hướng người lao động gốc Nhật sống tách biệt với người dân Nhật Bản

Ở Nhật Bản hiện nay, có một số lượng lớn người lao động nước ngoài gốc Nhật phân biệt với người lao động nước ngoài thông thường đang làm việc. Người lao động gốc Nhật là những người Nhật Bản di trú ra nước ngoài sinh sống, có quyền vĩnh trú ở nước đó (hoặc là con cháu của họ) nay quay trở lại làm việc tại Nhật Bản. Sự xuất hiện của họ gắn liền với qúa trình di cư của người dân Nhật Bản diễn ra từ thế kỷ 19.



Hiện tượng “cư dân tị nạn cafe internet” ở Nhật Bản hiện nay

Khi nghĩ tới Nhật Bản, người ta thường liên tưởng tới một siêu cường kinh tế, với mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người thuộc nhóm các nước hàng đầu trên thế giới và không có người nghèo tồn tại ở quốc gia này. Chính bản thân Nhật Bản cũng luôn tự hào là quốc gia có 90% dân số thuộc tầng lớp trung lưu, các thành phố hầu như không tồn tại các khu ổ chuột như nhiều nơi trên thế giới. Điều đó đã được khẳng định. Song, những năm gần đây, ở Nhật Bản xuất hiện nhiều thanh niên đêm này qua đêm khác sống ở quán cafe internet (net cafe), biến phòng máy tính thành nơi ăn ngủ, sinh hoạt của mình. Đó là đặc điểm chung của những người vô gia cư mới mà báo chí Nhật gọi là “dân tị nạn net cafe”. Tại sao lại xuất hiện hiện tượng này, tại sao họ lại trở thành “dân tị nạn net cafe”?



1 ... 15 16 17 18 19 20 21 22 23 ... 31
  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn