GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

THỦ TƯỚNG SHINZO ABE VÀ CHÍNH SÁCH WOMENOMICS

Đăng ngày: 15-05-2016, 00:12

Ngày 28 tháng 8 năm 2015, Thượng viện Nhật Bản đã thông qua luật yêu cầu các tổ chức thuộc khu vực tư và công thiết lập mục tiêu về số lượng trong tuyển dụng và đề bạt cán bộ nữ. Các tổ chức cũng được yêu cầu sẽ công bố tỷ lệ và mục tiêu của họ vào tháng 4 năm 2016. Thủ tướng Shinzo Abe coi pháp luật  là một bước quan trọng hướng tới việc đưa phụ nữ Nhật Bản vào các vị trí quản lý. Trong cam kết trao quyền cho phụ nữ trong lực lượng lao động Nhật Bản, Thủ tướng Abe đã sử dụng thuật ngữ Womenomics,  từ lần đầu tiên được Kathy Matsui của tổ chức Goldman Sachs đưa ra vào năm 1999.

Với lo ngại về sự sụt giảm và già hóa lực lượng lao động, Thủ tướng Abe đang cố gắng tạo điều kiện để nhiều người dân có thể đi làm, bao gồm cả phụ nữ và người lớn tuổi. Là một phần của chiến dịch này, năm 2013, ông đã thi hành lại mục tiêu về đề bạt phụ nữ vào các vị trí quản lý, kêu gọi phụ nữ “tỏa sáng” trong mọi lĩnh vực của đời sống. Kế hoạch này thường được gọi là Học thuyết kinh tế phụ nữ (womenomics). Những con số cho thấy, nếu năm 1989 mới chỉ có 57 trong số 757 người làm việc ở các vị trí cấp cao của bộ máy nhà nước là nữ thì đến năm 2014, đã có 230 người trong số 649 người mới tuyển dụng là nữ[1].

Các chuyên gia nhận định rằng, đối mặt với mối đe dọa kép về nhân khẩu học là tỷ lệ sinh giảm và già hóa dân số tăng nhanh, Nhật Bản không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc thúc đẩy phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động. Theo nghiên cứu của Goldman Sachs, ước tính GDP của Nhật Bản có thể được tăng lên gần 13% nếu bất bình đẳng giới được thu hẹp lại. Trước đó, các chính quyền tiền nhiệm của Thủ tướng Abe đã cố gắng để giải quyết vấn đề phức tạp này của Nhật Bản. Năm 2003, Chính phủ Nhật Bản đã thiết lập mục tiêu 30% phụ nữ tham gia quản lý nhưng tham vọng đó đã không thành công. Hiện nay, Chính phủ đương nhiệm cũng đưa ra mục tiêu 30% đến năm 2020, khi Tokyo tổ chức thế vận hội mùa hè. Valerie Moschetti, chủ tịch Ủy ban Xây dựng EBC cho biết “có thể khủng hoảng kinh tế khiến phụ nữ buộc phải làm việc nếu họ muốn duy trì mức sống. Nếu họ biết họ phải làm việc bằng mọi cách thì tại sao họ không làm việc và hưởng mức một mức lương tốt?”. Tuy nhiên, để đạt được một kết quả thực tế thì vẫn còn một chặng đường dài bởi “phụ nữ Nhật Bản phải mất nhiều thời gian để cân bằng giữa gia đình và công việc”. Bên cạnh đó, nhiều người cho rằng, cùng với mục tiêu về số lượng tuyển dụng, chính phủ cũng cần tăng kinh phí cho việc chăm sóc trẻ em và các chương trình hỗ trợ khác. Hiện nay, thực trạng trẻ em chờ nhà mẫu giáo vẫn đang tồn tại. Nữ giám đốc của một trường mẫu giáo ở Kita đã cho biết “số lượng các trường mẫu giáo đang gia tăng kể từ khi Thủ tướng Abe đặt trọng tâm vào chính sách Womenonics. Nhưng các nhân viên được trả lương thấp phải chịu nhiều áp lực trong công việc”[2].

Những số liệu của Cục Thống kê, Bộ Nội vụ và Truyền thông cho thấy 15 năm trước đây, tỷ lệ phụ nữ Nhật Bản trong độ tuổi lao động có việc làm đạt 56,7%. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho biết, vào năm 2010, tỷ lệ lao động nữ của Nhật Bản tăng lên gần 63%, cao hơn mức trung bình của OECD là 62%. Trong khi các tiến bộ cũng đã được thực hiện thì phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động của Nhật Bản vẫn còn thấp so với các quốc gia như Mỹ (68%) hay Anh (70%), cho dù thống kê này bao gồm của các công việc bán thời gian[3].

Các quan chức của Thủ tướng Abe thừa nhận rằng mục tiêu để phụ nữ chiếm 30% các vị trí quản lý vào năm 2020 là điều không được cả xã hội chia sẻ, và nên hạ thấp mục tiêu tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo trong bộ máy hành chính quốc gia từ 30% xuống 7%. Mục tiêu đối với các công ty cũng giảm xuống 15%. Chắc chắn Nhật Bản có thể làm tốt hơn.

Những thống kê quốc gia cho thấy phụ nữ Nhật Bản ngày càng gia tăng sự hiện diện trong lực lượng lao động: 63,6% phụ nữ trong độ tuổi từ 15 đến 64 tuổi hiện đang được trả lương. Các số liệu quốc tế chỉ ra rằng, con số này cao hơn mức trung bình của các nước công nghiệp giàu có, gần giống như Mỹ[4].

Hiện nay, trong bộ máy hành chính quốc gia 6,2% vị trí quản lý cấp thấp là phụ nữ. Trong khi hiện tại số sinh viên tốt nghiệp có hơn 30% là nữ, nghề nghiệp có xu hướng phát triển một cách chậm chạp. Họ phải làm khoảng 20 năm thì mới có thể chuyển sang vị trí giám sát, có nghĩa là một nhóm phụ nữ mới bắt đầu đi làm vào ngày 1 tháng 4 có khả năng sẽ phải chờ cho đến giữa những năm 2030 mới đạt được vị trí này. Việc trở thành quản lý cấp cao thậm chí còn phải mất nhiều thời gian hơn nữa.

Ông Robert Dujarric, Giám đốc Viện Nghiên cứu Châu Á đương đại thuộc Đại học Temple (Nhật Bản) nhấn mạnh rằng “khác với bộ máy hành chính của Pháp hay Anh, ở đó nếu bạn thực sự giỏi, bạn có thể có được một công việc tốt ở độ tuổi 30 hay 40, trong khi đó ở Nhật Bản, mọi thứ đều do thâm niên quyết định. Những người giỏi đang mòn mỏi chờ đợi trong những công việc thấp kém suốt nhiều thập kỷ”[5].

Hà Hậu, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

[1] “Womenomics” has to wait in line as tenure obstructs Abe’s goal

http://newsonjapan.com/html/newsdesk/article/115784.php

[2][3]Womenomics: Success or failure?

http://www.japantoday.com/category/opinions/view/womenomics-success-or-failure

[4]Why Abe’s ‘womenomics’ program isn’t working

http://www.japantimes.co.jp/opinion/2015/12/31/commentary/japan-commentary/abes-womenomics-program-isnt-working/#.Vvo03ZBvZLk

[5]“Womenomics” has to wait in line as tenure obstructs Abe’s goal

http://newsonjapan.com/html/newsdesk/article/115784.php

 

 

 

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn