GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

SỰ THAY ĐỔI CÁCH NHÌN VỀ NGHIÊN CỨU VIỆT NAM Ở NHẬT BẢN (Phần 1)

Đăng ngày: 21-12-2016, 08:34

SỰ THAY ĐỔI CÁCH NHÌN VỀ NGHIÊN CỨU VIỆT NAM

Ở NHẬT BẢN (Phần 1)

 

Tóm tắt: Từ những năm 2010 trở đi, đã có sự biến chuyển trong cách nhìn đối với xã hội Việt Nam. “Sự thay đổi về cách nhìn” mà bài viết muốn đề cập ở đây chính là cách nhìn đối với quan hệ cộng đồng nông thôn truyền thống của Việt Nam. Vào những năm 1990, các nhà nghiên cứu Việt Nam học ở Nhật Bản đều cho rằng Việt Nam mang trong mình sức mạnh tiềm ẩn của mối quan hệ xã hội cộng đồng truyền thống, và người Việt Nam sẽ phát huy những sức mạnh này để phát triển xã hội trong tương lai. Nhưng hiện nay, khi dự báo về “phát triển bền vững” thì dường như họ bắt đầu nhận ra sự xuất hiện manh nha của một quan hệ xã hội khác với quan hệ xã hội truyền thống. Có lẽ, dự báo của các nhà nghiên cứu Nhật Bản phần nào đã phản ánh sự thay đổi mạnh mẽ của xã hội và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam.

Từ khóa: Nghiên cứu Việt Nam, Nhật Bản, cộng đồng truyền thống, đổi mới, kinh tế


Mở đầu

Kể từ khi tuyên bố thực hiện chính sách Đổi mới từ năm 1986, trải qua thời kỳ chuyển đổi cơ cấu, từ thập niên 1990 đến nay, nhờ chính sách thị trường hóa nền kinh tế và chính sách đối ngoại “mở cửa”, Việt Nam đã thu được những thành tựu phát triển kinh tế vượt bậc. Vào thời kỳ đó, các nhà nghiên cứu Việt Nam học và các nhóm nghiên cứu ở Nhật Bản bị thu hút bởi sự phát triển của Việt Nam, đã đến đây điều tra, khảo sát thực địa và công bố những kết quả nghiên cứu của mình. Quan sát những điều này, có thể thấy rằng từ những năm 2010 trở đi, đã có sự biến chuyển trong cách nhìn đối với xã hội Việt Nam. “Sự thay đổi về cách nhìn” mà tôi muốn đề cập ở đây chính là cách nhìn đối với quan hệ cộng đồng nông thôn truyền thống của Việt Nam. Hẳn nhiên là ở Việt Nam hiện nay vẫn đang tồn tại mối quan hệ cộng đồng mang tính truyền thống điển hình của một nước châu Á. Vào những năm 1990, các nhà nghiên cứu Việt Nam học ở Nhật Bản đều cho rằng Việt Nam mang trong mình sức mạnh tiềm ẩn của quan hệ xã hội cộng đồng truyền thống, và người Việt Nam sẽ phát huy những sức mạnh này để phát triển xã hội trong tương lai. Nhưng hiện nay, khi dự báo về cái gọi là “phát triển bền vững” thì dường như họ bắt đầu nhận ra sự xuất hiện manh nha của một quan hệ xã hội khác với quan hệ xã hội truyền thống. Có lẽ, những dự báo của các nhà nghiên cứu Nhật Bản phần nào đã phản ánh sự thay đổi mạnh mẽ của xã hội và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam.

1. Sự chú ý đến sức mạnh tiềm tàng của cộng đồng nông thôn Việt Nam - Nghiên cứu Việt Nam học trong thập niên 1990

Vào năm 1996, giáo sư Furuta Motoo đã xuất bản cuốn sách “Việt Nam hiện tại”. Đó là một cuốn sách giới thiệu với đông đảo bạn đọc Nhật Bản về 10 năm đổi mới ở Việt Nam, các chính sách đổi mới và sự thay đổi của xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, đây không phải là một cuốn sách diễn giải một cách đơn thuần, mà dựa trên những căn cứ, tác giả Furuta Motoo đã cho thấy cách nhìn của riêng mình, phương pháp nghiên cứu độc đáo của riêng mình về Việt Nam. Khung phân tích về Việt Nam mà giáo sư Furuta Motoo đưa ra đã có ảnh hưởng rất lớn đến các nhà nghiên cứu Việt Nam học sau này. Tác giả Furuta Motoo trong quá trình xem xét sự thay đổi của vùng nông thôn Bắc bộ và Trung bộ ở Việt Nam trong làn sóng đổi mới từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến khi công cuộc Đổi mới được tiến hành, đã phát hiện ra sự tồn tại của một cộng đồng nông thôn với “tính kỷ luật” đặc trưng của nó từ xa xưa. Theo tác giả này, dưới ảnh hưởng của việc xây dựng mô hình hợp tác xã xã hội chủ nghĩa, cộng đồng nông thôn truyền thống về cơ bản bị giải thể, phá vỡ. Nhưng từ những năm 1980, khi chính sách đổi mới được thực hiện, bắt đầu hệ thống sản xuất theo mô hình khoán sản phẩm, những đơn vị sản xuất cơ bản đã chuyển từ mô hình hợp tác xã đến từng hộ gia đình, đồng nghĩa với việc vai trò của hợp tác xã bị thu nhỏ, sức mạnh của công đồng truyền thống “gia đình - làng xã” vốn tồn tại từ xa xưa đã được lấy lại, và cộng đồng này không chỉ đóng vai trò trong sản xuất hiện tại, mà còn nắm giữ vai trò điều phối và giải quyết những vấn đề xã hội trong địa phương, nơi mà “bàn tay” quản lý của nhà nước không thể bao quát hết được.

Trong bối cảnh đó, Furuta Motoo đã thiết lập một hệ thống của các quan hệ giữa “Quốc gia và xã hội” (ở đây, “xã hội” theo nghiên cứu của Furuta Motoo, là cộng đồng mang tính chất địa lý và huyết thống), và ông nhìn thấy triển vọng song tồn của hai thực thể hoạt động trên. Ông cho rằng “Làng có chức năng như là một hệ thống tập hợp ý chí của xã hội. Sự hình thành hương ước trong “làng” vốn đã được hồi sinh, liệu có nắm giữ vai trò quan trọng là truyền đạt và thẩm thấu các “ý chí” (quyết định) của quốc gia một cách nhuần nhuyễn hơn nữa đến những người nông dân, giúp ích cho việc hình thành một “quốc gia hùng mạnh”, hay là trở thành một công cụ giúp cho sự phát triển độc lập của cái “xã hội làng”, do nó mang tính độc lập tương đối đối với những quyết sách của quốc gia, điều này phụ thuộc rất lớn vào cách mà nó được triển khai trong tương lai” (trang 166-167). Ở đây, có thể thấy điều mà Furuta Motoo kỳ vọng, phải chăng là cái cộng đồng địa lý và huyết thống truyền thống ở nông thôn Việt Nam sẽ không bị kinh tế thị trường hóa cùng với đất nước (quốc gia), mà có thể đóng góp hiệu quả cho sự phát triển kinh tế.

Vào thập niên 1990, còn có một hệ thống lý thuyết nữa về Việt Nam, đó là tác phẩm “Kinh tế thị trường hóa ở Việt Nam” được biên tập bởi Ishikawa Shigeru và Hara Yonosuke (NXB.Đông dương kinh tế tân báo xã). Cuốn sách này là kết quả của dự án “Điều tra chính sách viện trợ phát triển thị trường hóa nền kinh tế Việt Nam”, một khuyến nghị về chính sách phát triển thực tiễn cho Việt Nam, được thực hiện với tư cách là một dự án hợp tác kinh tế của Chính phủ Nhật Bản với chính phủ Việt Nam trong giai đoạn 1995-1998 trên cơ sở đồng thuận giữa hai chính phủ. Dự án chung hợp tác này có sự tham gia của Bộ Kế hoạch đầu tư Việt Nam và một số viện nghiên cứu trực thuộc Bộ này.

Ishikawa cho rằng, mặc dù nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc trong thập niên 1990, nhưng đó chẳng qua cũng chỉ là “một hiện tượng của “thời kỳ tái thiết” trước khi có thể thấy được  những cải thiện thật sự trong chế độ sản xuất này” (tr.21-22), và vì vậy, cần phải thúc đẩy hơn nữa việc tái thiết kinh tế nông thôn.

Về đối sách cụ thể, theo lý thuyết phát triển nông nghiệp, nông thôn do Hara Yonosuke chủ biên thứ hai của cuốn sách đề xướng, các gia đình làm nghề nông ở Việt Nam còn chưa phát triển lên thành những tổ chức hoạt động tuân theo cơ chế thị trường, khả năng thu thập thông tin đối với thị trường nông sản vẫn còn yếu, hạ tầng giao thông kém…, “hạn chế về sản xuất lương thực” là rào cản lớn cho sự tăng trưởng của nông nghiệp Việt Nam” (tr.87)…, đó là những hiện trạng của nông thôn Việt Nam. Do đó, ở cả hai miền Nam, Bắc, cần phải “đoàn ngũ hóa nông dân (hình thành các tổ chức của nông dân) hoạt động rộng rãi trong các lĩnh vực như phổ biến, lưu thông hoàng hóa, hợp tác trong sản xuất, tín dụng…, hoàn toàn khác với hợp tác xã trước đây” (tr.94).

Ngoài ra, theo một tác giả khác của cuốn sách - GS.Sakurai Yumiko, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Hồng, “nền tảng của việc xây dựng làng (muradukuri) không phải là thôn làng theo đơn vị hành chính mà Hợp tác xã, hay Đội sản xuất - đơn vị cơ bản của hợp tác xã = Lấy hạt nhân là Xóm” (tr.127), đó chính là “cái đơn vị tổ chức tốt nhất để phát triển sản xuất và đa dạng hóa nông nghiệp” (tr.128). Hiện nay, các hợp tác xã kiểu cũ đã bị giải thể, còn các hợp tác xã mới thì chỉ nắm giữ vai trò rất hạn chế, chính vì vậy mà phải phục hồi hợp tác xã một lần nữa, và xây dựng các liên hiệp hợp tác xã ở những khu vực mà hợp tác xã hoạt động hiệu quả, đó là đề xuất của nhà nghiên cứu này.

Tác giả Chou Kenji của cuốn “Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường” xuất bản năm 2005 cũng đồng quan điểm với GS.Furuta Motoo và GS.Ishikawa. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu điều tra tại Việt Nam do ông tiến hành từ năm 1993-1999, khi ông còn là giáo sư tại đại học Kyushu (đến năm 2005). Ông cho rằng, nông nghiệp Việt Nam sau Đổi mới đã có những bước thay đổi và phát triển nhanh chóng, “nhưng mới chỉ là hiện tượng nông nghiệp được phát huy mạnh mẽ, cứ chưa đạt đến một sự phát triển thực chất” (tr.42). Theo ông, cần có những chính sách trọng điểm về nông nghiệp nông thôn do Nhà nước đề ra, và trọng tâm cần đặt vào việc thúc đẩy vai trò của cộng đồng làng xã truyền thống. Có nghĩa là, “phong trào đầu tư để cải thiện hệ thống thủy lợi ở cấp độ thôn làng và phong trào các thôn tự quản lý hệ thống tưới tiêu của mình một cách triệt để đang được nâng cao trong thời gian gần đây chính là động cơ thực sự nâng cao tính cộng đồng của các thôn, làng. Ở vùng đồng bằng sông Hồng, ít nhất trong hiện tại và tương lai gần, cộng đồng thôn xóm vẫn đóng vai trò nòng cốt trong việc triển khai nông nghiệp và phát triển nông thôn” (tr.93).

Có thể thấy rằng, các nhà nghiên cứu Việt Nam học chủ chốt ở Nhật Bản trong những năm 1990 và những công trình nghiên cứu về sự phát triển kinh tế nông nghiệp của họ đều có chung luận điểm, đó là nhấn mạnh việc phát huy sức mạnh tiềm ẩn của cộng đồng nông thôn truyền thống để phát triển hơn nữa kinh tế nông nghiệp. Nhưng, từ thập niên 2000 đến nay, quan điểm đó đã thay đổi.

2. Sự “rung chuyển” trong quan điểm về cộng đồng nông thôn Việt Nam - Nghiên cứu Việt Nam sau thập niên 2000

Năm 2011, Teramoto Minoru (chủ biên) cuốn sách “Nhà nước và xã hội Việt Nam hiện đại” - kết quả của hội nghị nghiên cứu “Nhà nước và xã hội Việt Nam dưới thời Đổi mới” tại Viện Nghiên cứu kinh tế châu Á, Cơ quan xúc tiến thương mại Nhật Bản năm 2005-2006; GS.Furuta Motoo cũng tham gia với tư cách cố vấn. Cuốn sách này của Teramoto cũng dựa trên hệ thống phân tích của GS.Furuta Motoo về “Nhà nước và xã hội”, nhưng đối với luận điểm của GS.Furuta Motoo về việc sử dụng sức mạnh tiềm tàng của “xã hội” (tức là cộng đồng nông thôn truyền thống), thì ông cho rằng trong “xã hội” Việt Nam hiện nay có tồn tại một quan hệ xã hội khác với quan hệ cộng đồng nông thôn truyền thống, hay nói cách khác, cái gọi là “mối quan hệ thị dân” phù hợp với nền kinh tế thị trường đã ra đời. Có thể thấy rằng từ cuốn sách này, đã manh nha sự nhận thức về mối “quan hệ thị dân” trong lòng xã hội Việt Nam truyền thống.

Theo Takeuchi Ikuo, đồng tác giả cuốn sách trên, cái khung “Nhà nước và xã hội” trong phân tích về Việt Nam của Furuta Motoo có thể được gọi bằng một cách khác, đó là mối quan hệ giữa “Chính phủ và xã hội” xuất phát từ “Lý thuyết phát triển kinh tế trường trường phái kinh tế học thể chế mới”. “Lý thuyết phát triển kinh tế trường phái kinh tế học thể chế mới” cho rằng kinh tế thị trường bao gồm cả những yếu tố ngoài thị trường, đó là “chính phủ” và “những hoạt động phối hợp thông qua cộng đồng”, và hai hệ thống ngoài thị trường ấy có tác dụng hỗ trợ, giảm nhẹ những “thất bại của thị trường”.

“Cộng đồng” mà Takeuchi đề cập đến, trước hết không chỉ là cộng đồng nông thôn truyền thống ở miền Bắc, mà còn là mạng lưới những người kinh doanh nhỏ giữ vai trò môi giới ở nông thôn Nam bộ tạo nên hệ thống lưu thông lúa gạo truyền thống, và hơn nữa, đó còn là mạng lưới “gia đình - người thân”, tất cả đều có thể gọi là “quan hệ cộng đồng truyền thống”. Cộng đồng này giữ vai trò điều tiết khi phát sinh những khó khăn, bần hàn do thất bại của thị trường hay thất bại của những chính sách của chính phủ đem lại. Và, cũng giống như các bài viết của Furuta Motoo, Takeuchi đã kết luận rằng ông cũng kỳ vọng vào việc phát huy chức năng song song của hai hệ thống: “chính phủ” và “cộng đồng”, đặc biệt, ông kỳ vọng vào việc phát huy tích cực vai trò của “cộng đồng” trong khoảng thời gian nhất định ở một mức độ nhất định (tr.52).

Tuy nhiên, Takeuchi cũng đề cập đến “cộng đồng” như sau: “cộng đồng” trong quan điểm của Lý thuyết phát triển kinh tế trường phái tân thể chế không nhất thiết chỉ giới hạn ở “xã hội gia đình” và “xã hội làng xã”… Nếu như có một hệ thống các khuôn khổ chức năng có thể cân bằng thu hoạch và tiêu thụ như là kết quả của sự phân tán rủi ro, hoặc giảm thiểu tính không hoàn thiện và chi phí kinh doanh của hệ thống thông tin… thì tất cả hệ thống này đều được coi là “cộng đồng” (tr.35). Có nghĩa là, “Cộng đồng” không hẳn chỉ là những mối quan hệ hợp tác mang tính chất địa lý hoặc huyết thống theo truyền thống, mà nó còn là các hoạt động hợp tác mang tính chất của xã hội dân sự. Hay nói đúng hơn, phải chăng chính vế thứ hai kia mới thích hợp để bổ sung cho “những thất bại của thị trường”. Nói như vậy để thấy rằng, cái quan hệ cộng đồng mang tính huyết thống, địa lý cho dù có hỗ trợ, bổ sung cho những thất bại của thị trường thì chưa chắc nó đã có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy mà Takeuchi chỉ công nhận một điểm, đó là “xóa đói giảm nghèo” trong vai trò của quan hệ cộng đồng huyết thống - khu vực truyền thống, và phải chăng chính vì vậy mà ông đã gán cho nó cái giới hạn sử dụng “trong khoảng thời gian nhất định, ở mức độ nhất định”. Với cách nghĩ này, có thể thấy, từ những điều Takeuchi phát biểu, có lẽ quan điểm của ông không hoàn toàn trùng lắp với những luận điểm của Furuta Motoo.

Ngoài ra, Nakano Ari, một trong những tác giả của cuốn sách trên đã tiến hành khảo sát sự phát triển của xã hội dân sự cho rằng “Hiện nay ở Việt Nam có một xã hội dân sự tự trị khác với “làng”, một xã hội thực sự đang manh nha phát triển” (tr.135). Xã hội dân sự mà Nakano nói đến chính là các hoạt động xã hội tự nguyện, hình thành trong nền kinh tế thị trường với hình thức giữ khoảng cách càng xa càng tốt đối với các chính sách của nhà nước (tr.137).

Teramoto Minoru - chủ biên cuốn “Nhà nước và xã hội Việt Nam hiện đại” cho rằng sự tồn tại song song sức mạnh tiềm tàng của Nhà nước và Xã hội (tức là cộng đồng địa lý - huyết thống), tức là cái khung lý thuyết về Nhà nước tận dụng các quan hệ cộng đồng truyền thống, có lẽ đã được Furuta Motoo kỳ vọng đưa vào vận dụng ở Việt Nam trong giai đoạn phát triển này, song ngược lại thực tế phát triển của Việt Nam phải chăng đã làm rung chuyển khung lý thuyết ấy của Furuta Motoo.

Murakami Shunsuke, Giáo sư, Khoa kinh tế, Đại học Senshu; Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Đại học Senshu.

 

Người dịch: Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

 

Tài liệu tham khảo

  1. Akiba Mariko, 2015, Tổ chức và kinh tế nông thôn Việt Nam, NXB.Đại học Hirosaki – 2015-2 “Tài chính vi mô nông thôn Việt Nam: môi giới và hiệu suất hoạt động của các đoàn thể công cộng” (Akiba Mariko 2015).(秋葉まり子2015 『ベトナム農村の組織と経済』(弘前大学出版会)-2015-2 「ベトナム農村のマイクロファイナンス:大衆団体の仲介と運営パフォーマンス」(秋葉まり子2015)
  2. Ishikawa Shigeru, Hara Yonosuke, 1999, Thị trường hóa nền kinh tế Việt Nam, NXB. Toyokeizai shinposha (石川滋・原洋之介1999 『ヴィエトナムの市場経済化』(東洋経済新報社))
  3. Ishikawa Shigeru, 1999, “Kinh nghiệm hợp tác kinh tế hóa thị trường Việt Nam”, Ishikawa Shigeru, Hara Yonosuke, 1999 (石川滋1999 「ヴィエトナム市場経済化協力の経験」(石川滋・原洋之介1999))
  4. Nguyễn Xuân Oanh, 2003 Kinh tế Việt Nam – Bước phát triển mới trong thế kỷ 21, NXB.Akashi Shoten (グエン・スアン・オアィン2003 『ベトナム経済―21世紀の新展開』(明石書店)).
  5. Sakata Shouzo, Sự phát triển của nông nghiệp/nông thôn Việt Nam dưới thời tăng trưởng kinh tế cao, Viện Nghiên cứu kinh tế châu Á, năm 2013. (坂田正三2013 『高度経済成長下のベトナム農業/農村の発展』(アジア経済研究所)
  6. “Thị trường lao động ở các làng nghề vùng đồng bằng sông Hồng”, 2013-2, Sakata Shouzo, 2013. (2013-2「ベトナム江河デルタ地域の「専業村」における労働市場」(坂田正三2013)
  7. “Sự biến đổi của đoàn thể quần chúng nông thôn với tư cách là các tổ chức trung gian”, Akiba Mariko, 2015. (「中間組織としての農村大衆団体の変化」(秋葉まり子2015))
  8. Sakurai Yumio, “Xây dựng tổ chức sản xuất nông dân mới lấy cơ sở là hợp tác xã ”, Ishikawa Shigeru, Hara Yonosuke, 1999. (桜井由躬雄1999 「合作者を基礎とする新しい農民生産組織の建設」(石川滋・原洋之介1999))
  9. Shiraishi Masaya, Cơ cấu quốc gia Việt Nam, NXB Akashi Shoten, năm 2000. (白石昌也(しらいし・まさや)2000 『ベトナムの国家機構』(明石書店))
  10. Takanashi Fumie, “Các tổ chức trung gian trong hệ thống thực phẩm rau an toàn ở Hà Nội”, 2015. (高梨子文恵2015 「ハノイ市安全野菜フードシステムにおける中間組織」(秋葉まり子2015))
  11. Takeuchi Ikuo, “Sự tồn tại và vai trò của “cộng đồng” ở Việt Nam dưới thời Đổi mới và sự thất bại của “chính phủ””, Teramoto Minoru, 2011) (竹内郁雄2011 「ドイモイ下のベトナムにおける「共同体」の存在と役割および「政府」の失敗」(寺尾実2011))
  12. Chou Kenji, Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường, NXB.Tsukuba Shobo, 2005. (長 憲次2005 『市場経済下 ベトナムの農業と農村』(筑波書房))
  13. Tsuboi Yoshiharu, Việt Nam – bình minh của “phồn thinh”, NXB.Iwanami Shoten, 1994. (坪井善明(つぼい・よしはる)1994 『ヴェトナム-「豊かさ」への夜明け』(岩波書店))
  14. Việt Nam thời đại mới - tìm đến con đường “phồn vinh”, NXB.Iwanami Shoten (2008 『ヴェトナム新時代―「豊かさ」への模索』(岩波書店))
  15. Teramoto Minoru (chủ biên) Nhà nước và xã hội Việt Nam hiện đại, NXB.Akashi Shoten, 2011 (寺本 実2011 『現代ベトナムの国家と社会』(明石書店))
  16. Trần Văn Thọ, Lý thuyết phát triển kinh tế Việt Nam, NXB.Keisho Sobo, 2010. (トラン・ヴァン・トウ2010 『ベトナム経済発展論』(勁草書房))
  17. Nakatomi Hisashi, Kinh tế Việt Nam và cấu trúc cơ bản, NXB.Nihon hyoronsha (中臣 久(なかとみ・ひさし)2002 『ベトナム経済の基本構造』(日本評論社))
  18. Nakano Ari, “Đảng ở Việt Nam – Mối quan hệ giữa quốc gia và xã hội thị dân”, Teramoto Minoru, 2011. (中野亜里2011 「ベトナムにおける党―国家と市民社会の関係性」(寺本実2011))
  19. Niimi Tatsuya, “Phát triển khu công nghiệp và gia tăng cơ hội việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn Việt Nam”, Sakata Shouzo, 2013. (新美達也2013 「ベトナムの工業団地開発と農村非農業就労機会の増加」(坂田正三2013))
  20. Haruhiro Yukisuke, “Phát triển nông nghiệp – nông thôn: trọng tâm là lúa gạo”, Ishikawa Shigeru, Haruhiro Yukisuke, 1999. (原洋之介1999 「農業・農村開発:米を中心にして」(石川滋・原洋之介1999))
  21. Fujikura Tetsuro, “Cơ hội tuyển dụng việc làm tại địa phương Việt Nam và việc làm tại hộ gia đình nông thôn – cấu trúc kinh tế gia đình”, Sakata Shouzo, 2013. (藤倉哲郎2013 「ベトナムにおける地方雇用機会と農村世帯の就業・家計構造」(坂田正三2013))
  22. Furuta Motoo, Việt Nam hiện tại, NXB.Kodansha, 1996. (古田元夫1996 『ベトナムの現在』(講談社))
  23. Viện Nghiên cứu Việt Nam tổng hợp, đại học Waseda, Thời đại mới của Đông Á và kinh tế Việt Nam, 2010. (早稲田大学ベトナム総合研究所2010 『東アジア新時代とベトナム経済』(文眞堂))
  24. Kojin Emi (2013) “Thực trạng và kỳ vọng về chính sách đối với hợp tác xã - Từ ví dụ về vùng trồng hoa quả Nam bộ Việt Nam”, Sakata Shouzo, 2013. (荒神衣美2013 「合作社に対する政策的期待と実態―ベトナム南部果物産地の事例から」(坂田正三2013))
  25. “Tổ chức trung gian trong nông nghiệp đồng bằng sông Mekong”, Akiba Mariko, 2015. (「メコンデルタ農業における中間組織」(秋葉まり子2015))
  26. Takahashi Rui, “Sự mở rộng quy mô kinh doanh ở nông thôn Việt Nam hiện nay và sức thu hút lao động”, Sakata Shouzo, 2013. (高橋 塁2013 「現代ベトナム農業における経営規模の拡大とその雇用吸収力」(坂田正三2013))

 

Tin tức khác

GIỚI THIỆU SÁCH \
GIỚI THIỆU SÁCH "XÃ HỘI NHẬT BẢN – DÂN SỐ, GIA ĐÌNH VÀ CỘNG ĐỒNG"

Xã hội Nhật Bản – Dân số, gia đình và cộng đồng

Tác giả: TS. Ngô Hương Lan ...

NHẬT BẢN ĐỔ BỘ THÀNH CÔNG LÊN MẶT TRĂNG
NHẬT BẢN ĐỔ BỘ THÀNH CÔNG LÊN MẶT TRĂNG

Mới đây JAXA (Cơ quan thám hiểm hàng không vũ trụ Nhật Bản) đã thông báo, tàu vũ trụ thăm dò không người lái S ...

DẤU ẤN ĐẶC BIỆT KỶ NIỆM 50 NĂM THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM - NHẬT BẢN
DẤU ẤN ĐẶC BIỆT KỶ NIỆM 50 NĂM THIẾT LẬP QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM - NHẬT BẢN

Nằm trong chuỗi các sự kiện quan trọng kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam- Nhật Bản (1973-20 ...

TRIỂN VỌNG CỦNG CỐ LIÊN HỢP QUỐC: VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN
TRIỂN VỌNG CỦNG CỐ LIÊN HỢP QUỐC: VAI TRÒ CỦA NHẬT BẢN

Ngày 24/3, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức Hội thảo kho ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn