GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

SỰ BIẾN ĐỔI CỦA CỘNG ĐỒNG TRUYỀN THỐNG Ở NHẬT BẢN

Đăng ngày: 13-05-2018, 16:43

1. Khái niệm “cộng đồng”

Khái niệm “cộng đồng” được dùng để chỉ “tập hợp những người sống trong cùng một khu vực địa lý, cùng trực thuộc một khu vực hành chính, đó có thể là một  “khu phố” hoặc “làng”. Các cộng đồng khác như cộng đồng trên mạng internet, vốn khác xa với cộng đồng địa phương không thuộc đối tượng và phạm vi khảo sát  của bài viết.

Tiểu ban các vấn đề về cộng đồng thuộc Phòng điều tra của Hội đồng tư vấn đời sống quốc dân (1969) đã định nghĩa cộng đồng là “nhóm người mà các chủ thể cấu thành bao gồm các cá nhân hoặc gia đình có tính tự chủ, tự giác về trách nhiệm công dân của mình tại nơi sinh sống, cùng có những đặc tính của khu vực và cùng có những mục tiêu chung, có sự tin tưởng lẫn nhau một cách tự nguyện”.

Hiroi Yoshinori (2009) cho rằng cộng đồng là “nhóm người có chung ý thức quy thuộc nào đó, và giữa các thành viên của nhóm có sự liên kết nhất định hoặc có ý thức giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau” [Dẫn theo Kamihara (2014), tr.100]. Ở đây chúng ta có thể định nghĩa “cộng đồng xã hội địa phương” là “một tập hợp của các nhóm xã hội được cấu thành từ những cá nhân và gia đình, mang tính cộng đồng (có ý thức liên kết và phụ thuộc lẫn nhau, có ý thức hỗ trợ, bổ sung cho nhau) và có tính địa phương, cùng có mối quan hệ lợi ích về kinh tế, xã hội...”.

2. Sự biến chuyển của cộng đồng truyền thống

Ở Nhật Bản, do sự biến chuyển nhanh chóng của xã hội vào thời kỳ kinh tế tăng trưởng cao độ trong các thập niên 1960-1970, các cộng đồng dân cư truyền thống được cấu thành bởi tầng lớp cư dân nông thôn truyền thống đã dần mất đi, thay vào đó, “tầng lớp cư dân vô cảm” mà sự quan tâm đến cuộc sống sinh hoạt ở địa phương của họ rất ít, đang dần xâm nhập vào cộng đồng truyền thống khiến cho các chức năng của cộng đồng địa phương truyền thống bị yếu đi đáng kể.

Cộng đồng có một vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thực hiện “tính người” và “tính cá nhân” của con người với tư cách là một động vật mang tính xã hội. Nhìn từ tổng thể xã hội, nếu tính cộng đồng (mối dây liên kết và cảm giác gắn kết giữa người và người) mất đi, thì các giá trị đạo đức, luân lý và tinh thần cộng đồng vì cái chung sẽ giảm sút, tội phạm gia tăng và các bệnh lý xã hội sẽ phá hủy nền tảng xã hội và làm tăng cảm giác bất an của con người trong xã hội hiện đại. Về điểm này, "Hội nghiên cứu về sự tồn tại của cộng đồng mới" (2009) đã chỉ ra rằng "trong những năm gần đây, các nhu cầu về dịch vụ công cộng (dịch vụ xã hội) gắn liền mật thiết với cuộc sống không chỉ được đa dạng hóa mà còn yêu cầu cao về chất lượng, trong khi "sự hợp tác trong cộng đồng đang bị rỗng hóa", ảnh hưởng đến sự tồn tại của các hệ thống cơ bản đảm bảo sự liên kết trong cộng đồng địa phương, nơi có thể cung cấp một cách hiệu quả, tổng hợp, ổn định và bền vững các dịch vụ trên.

3. Nguyên nhân của sự biến đổi cộng đồng truyền thống

Trong cộng đồng truyền thống ở Nhật Bản, tức là trong cái xã hội kiểu "làng" ở nông thôn, tất cả các sinh hoạt cuộc sống đều phụ thuộc lớn vào cộng đồng, do đó mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng rất mật thiết, nhưng mặt khác, tính "bế tỏa" (tính khép kín) là rất cao và mọi người đều phải tuân theo những khế ước bất thành văn trong cuộc sống, và do đó sự riêng tư của mỗi cá nhân hầu như không có. Có thể nói, sự suy yếu của mối quan hệ cộng đồng bắt đầu từ những năm 1950, và chưa có dấu hiệu dừng lại trong những năm gần đây. Theo Hội đồng tư vấn đời sống quốc dân thì nguyên nhân của vấn đề này nằm ở 7 điểm như sau:

(1) Do sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện giao thông và truyền thông, phạm vi cuộc sống của con người được mở rộng, cơ giới hóa nông thôn cùng với sự phổ cập của ti vi, điện thoại và các sản phẩm gia dụng hiện đại khác đã nâng cao mức sống và tiêu chuẩn tiêu dùng của người dân, và kết quả của điều này là phạm vi cuộc sống của mỗi cá nhân được mở rộng, cảm giác cần phải dựa vào những thành viên khác trong cộng đồng để cùng tồn tại đã giảm đi đáng kể.

(2) Sự tập trung dân số ở thành thị và sự thay đổi của cơ cấu sản xuất và tuyển dụng đã kéo theo một tầng lớp cư dân mới đổ bộ vào các đô thị lớn, họ được gọi là lớp người không quan tâm đến đời sống cộng đồng. Chính họ - với sự bàng quan này - đã làm cho các chức năng của cộng đồng dần yếu đi, trong khi việc duy trì kiểu cộng đồng truyền thống ở nông thôn gặp nhiều khó khăn do sự giảm sút dân số ở nơi đây.

(3) Lối sống và ý thức cuộc sống (quan niệm sống) đô thị hóa, tầng lớp trẻ tuổi được tuyển dụng xâm nhập vào các thành phố lớn, phong cách và các quan niệm sống của cư dân đô thị như tính hợp lý, tính bình đẳng, lấy cá nhân làm trung tâm... phát triển nhanh chóng làm cho việc duy trì kiểu cộng đồng nông thôn truyền thống, ngay cả ở vùng nông thôn là vô cùng khó khăn.

(4) Sự gia tăng các đoàn thể chức năng, thay thế cho những chức năng trước kia vốn dựa vào cộng đồng, được cộng đồng đảm nhận, sự xuất hiện của các tổ chức xã hội đa dạng đã làm xoay trục chức năng của cộng đồng... Các hội thể thao, hội sở thích, hội giáo dục, hội du lịch... tập trung những người có cùng các mục đích như trên xuất hiện, làm cho giá trị tồn tại của cộng đồng truyền thống nhỏ mờ nhạt dần.

(5) Sự mở rộng chức năng của các cơ quan hành chính, công việc vốn được các hội phố và hội nông thôn đảm nhiệm dần dần được người dân chuyển giao và kỳ vọng ở các tổ chức hành chính công từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2.

(6) Cuộc cách mạng cơ cấu gia đình, sự biến mất của chế độ gia trưởng (lấy con trưởng làm trung tâm), nơi mà thông qua gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng được gắn kết, đã làm cho giá trị quan về cộng đồng thay đổi đáng kể, mối quan hệ trong cộng đồng dần trở nên suy yếu.

(7) Sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở nông thôn mà trước đây việc sản xuất nông sản là mục tiêu chung của các cư dân trong cộng đồng, việc cùng làm chung, canh tác chung đã tạo nên vai trò lớn của cộng đồng. Nhưng cuộc cách mạng nông nghiệp đã làm cho các chủ đất và mối quan hệ canh tác nhỏ biến mất, những “nông dân kiêm nhiệm”, hay nói cách khác là hiện tượng phi nông dân hóa tăng lên, cơ cấu sản xuất biến đổi, sự xuất hiện ngày càng nhiều của các tổ chức công đoàn làm cho sức mạnh của cộng đồng truyền thống giảm sút nghiêm trọng.

Cùng với những nguyên nhân trên, kể từ sau thập niên 1960, hiện tượng các cư dân mới xuất hiện ở những khu ngoại ô và đô thị mới cùng với lối sống kiểu mới - “nhà ở cách xa nơi làm việc” - đã đưa đến thực trạng là: sự quan tâm lẫn nhau và mối quan hệ giữa cư dân địa phương giảm sút đáng kể. Bên cạnh đó, những năm gần đây, cùng với sự thay đổi của cơ cấu xã hội, xã hội già hóa, tỉ lệ sinh thấp và các hộ gia đình đơn thân tăng lên, tỉ lệ người trẻ tham gia vào các hoạt động cộng đồng và các tổ chức cộng đồng cũng giảm mạnh. Và cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, những tiện ích mà mạng internet đem lại đã làm biến đổi đặc tính của các mối quan hệ, sự quan tâm đến cộng đồng trên web tăng lên so với sự quan tâm đến cộng đồng mang tính địa lý, và đây chính là một nguyên nhân căn bản dẫn tới sự thay đổi các đặc tính cộng đồng, làm suy yếu cộng đồng truyền thống như đã nêu trên.

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Kamihara (2014), “Sự biến đổi của cộng đồng và vốn xã hội - Xem xét vấn đề dựa trên các nghiên cứu đi trước”, Kỷ yếu nghiên cứu về vốn quan hệ xã hội, Đại học Senshu.
  2. Imanishi Hajime (2009), Cộng đồng địa phương Nhật Bản hiện đại, NXB.Nihon keizai Hyoronsha.
  3. Điều tra so sánh đối chiếu về ý thức xã hội ở các quốc gia Nhật – Trung – Hàn, Viện Nghiên cứu tổng hợp, Đại học Phật giáo, Kyoto, 2001.
  4. Wakagoe Junji (1990), Gia đình và cộng đồng địa phương, NXB.Meicho.
  5. Matsumoto Kenichi (1978), Lý thuyết về tính cộng đồng, NXB.Dai san Bunmei sha.

 

 

 

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn