GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

NHẬT BẢN TĂNG CƯỜNG TIẾP NHẬN LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Đăng ngày: 25-06-2018, 07:52

Nhật Bản phụ thuộc nguồn lao động người nước ngoài

Theo thống kê, dân số Nhật Bản năm 2017, bao gồm cả cư dân là người nước ngoài, là 126,7 triệu người, giảm 227.000 người so với năm trước đó. Đây là năm thứ 7 liên tiếp dân số giảm. Tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm mức cao kỷ lục là 27,7% trong tổng dân số. Tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi giảm xuống mức thấp kỷ lục là 12,3%. Trong số 47 tỉnh, chỉ có 7 tỉnh có dân số không giảm. Tỉnh có mức giảm dân số nhiều nhất là tỉnh Akita với 1,4%[1].

Tình trạng già hóa dân số của Nhật Bản, tính theo tỉ lệ người 65 tuổi trở lên trên tổng dân số, cao hơn so với các nước phát triển khác. Những thống kê từ năm 1995 đến năm 2016 cho thấy không chỉ về số lượng mà tốc độ gì hóa của Nhật Bản cũng ơ mức rất cao.

Biểu 1: Biến động tỉ lệ người cao tuổi ở một số quốc gia

Đơn vị %

NHẬT BẢN TĂNG CƯỜNG TIẾP NHẬN LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Nguồn: 総務省統計局 (Cục thống kê, Bộ Nội vụ Nhật Bản)

http://www.stat.go.jp/info/today/114.html

Trong bối cảnh già hóa dân số dẫn đến thiếu hụt sức lao động, người nước ngoài là lực lượng bổ sung cho sự thiếu hụt này. Theo số liệu của chính phủ Nhật Bản, tính đến ngày 31/10 năm 2017, có 1.278.670 người nước ngoài làm việc tại các công ty Nhật Bản, tăng 194.000 người, tức 18%, so với năm trước đó. Đây là mức kỷ lục kể từ khi bắt đầu thu thập số liệu vào năm 2008.

Tính theo quốc tịch, lao động Trung Quốc đứng đầu với 372.000 người chiếm 29,1%, tiếp theo là lao động Việt Nam với 240.000 người chiếm 18,8%. Đứng thứ 3 là lao động Philippines với 146.000 người, chiếm 11,5%. Về tốc độ gia tăng so với năm 2016, đứng thứ nhất là người Việt Nam tăng 40%, tiếp theo là người Nepal, tăng 31%.

Tính theo tư cách lưu trú, 459.000 người có gốc Nhật hoặc có vợ/chồng là người Nhật Bản. Đứng thứ 2 là sinh viên với 259.000 người, tăng khoảng 24% so với năm 2016. Tiếp theo là thực tập sinh kỹ năng với 257.000 người.
Bộ Lao động cho biết tình trạng thiếu lao động cộng với việc kinh tế Nhật Bản hồi phục đã thúc đẩy các doanh nghiệp tuyển dụng sinh viên làm thêm và thực tập sinh kỹ năng[2].

Thực tế, người nước ngoài đã trở thành phần không thể thiếu trong lực lượng lao động ở Nhật Bản. Thậm chí trong một số ngành sự phụ thuộc này lớn tới mức nếu thiếu lực lượng lao động người nước ngoài, ngành đó sẽ không thể duy trì.

Biểu 2: 10 tỉnh thành có tỉ lệ gia tăng người nước ngoài cao nhất Nhật Bản (từ năm 2013-2017)

Đơn vị %

NHẬT BẢN TĂNG CƯỜNG TIẾP NHẬN LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Nguồn: 外国人依存ニッポン

https://www.nhk.or.jp/d-navi/izon/prologue.html

Biểu 3: Tỉ lệ người lao động nước ngoài thuộc nhóm tuổi 20-30 trong các ngành nghề (năm 2015)

Đơn vị %

NHẬT BẢN TĂNG CƯỜNG TIẾP NHẬN LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Nguồn: Nguồn: 外国人依存ニッポン

https://www.nhk.or.jp/d-navi/izon/prologue.html

Ngành nông nghiệp, cứ 14 người lao động có 1 người nước ngoài; ngành ngư nghiệp cứ 16 người có 1 người nước ngoài và con số này ở ngành chế tạo là 21/1. Ngành nông nghiệp và ngư nghiệp phụ thuộc nhiều vào lực lượng lao động người nước ngoài.

Biểu 4: Tỉ lệ phụ thuộc lao động người nước ngoài nhóm tuổi 20-30 trong ngành nông nghiệp

Đơn vị %

NHẬT BẢN TĂNG CƯỜNG TIẾP NHẬN LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Nguồn: 外国人依存ニッポン

https://www.nhk.or.jp/d-navi/izon/prologue.html

Trong bối cảnh xã hội Nhật Bản siêu già hóa, người lao động trong ngành nông nghiệp là người già và người nước ngoài. Tỉ lệ phụ thuộc cao nhất ở Ibaraki, trong nhóm lao động tuổi 20-30, cứ 3 người có 1 người nước ngoài, tiếp đó là Kagawa và Nagano.

Tình trạng tương tự cũng diễn ra trong ngành ngư nghiệp. Cao nhất ở Hiroshima, cứ 2 người lao động có 1 người nước ngoài, tiếp đó là Kochi và Miyagi với tỉ lệ là 3/1 và 4/1.

Mở rộng cơ chế tiếp nhận lao động người nước ngoài

Lo ngại những ảnh hưởng xấu của tình trạng dân số ngày càng già hóa, đầu năm 2018, nhân dịp kỷ niệm 150 năm Cải cách Minh Trị, thủ tướng Abe đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lực lượng lao động. Ông cho rằng nguồn nhân lực đông đảo được nuôi dưỡng dưới thời kỳ Minh Trị duy tân, cùng với ý thức về khủng hoảng quốc gia đến từ các cường quốc phương Tây, là động lực cho quá trình hiện đại hóa nhanh chóng của Nhật Bản.

Thiếu hụt sức lao động là một trong những lý do không khơi dậy được tinh thần mà cải cách kinh tế của thủ tướng Abe đề ra. GDP từ tháng 1-3/2018 của Nhật Bản giảm 0,2% so với cùng kỳ năm ngoái, và tăng trưởng kinh tế âm. Thiếu hụt lực lượng lao động trong ngành dịch vụ khách sạn cản trở ngành du lịch đang rất phát triển ở Nhật Bản hiện nay. Tuổi thọ trung bình của người lao động trong ngành nông nghiệp là 67 tuổi. Ngoài ra, thiếu hụt nhân lực cũng là trở ngại với các dự án xây dựng cho Olympic Tokyo năm 2020.

Trong tháng 6 năm 2018, chính phủ Nhật Bản quyết định sẽ tiếp nhận hơn 500.000 người lao động nước ngoài từ nay đến năm tài chính 2025, nhằm khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực. Kế hoạch của chính quyền thủ tướng Abe là cấp Visa hay tư cách lưu trú cho người lao động làm việc trong 5 lĩnh vực dịch vụ khách sạn, xây dựng, đóng thuyền, nông nghiệp và điều dưỡng. Theo chương trình này, trong 5 lĩnh vực nêu trên, nếu đạt chứng chỉ tiếng Nhật và kỹ thuật sẽ  có tư cách lưu trú mới dài nhất là 5 năm. Những người đã hoàn thành chương trình thực tập sinh 5 năm có thể miễn thi. Như vậy nếu chuyển từ chế độ thực tập sinh sang, khả năng lưu trú có thể kéo dài lên 10 năm[3].

Cho đến nay, lao động nước ngoài làm việc tại Nhật Bản được thừa nhận theo các tư cách lưu trú sau.

Thứ nhất, những người được thừa nhận tư cách lưu trú để làm việc tại Nhật Bản, gồm những người trong lĩnh vực chuyên môn và kỹ thuật như giáo sư, kinh doanh, quản lý, luật sư, bác sỹ,….

Thứ hai, tư cách lưu trú dựa trên nhân thân: Dân cư trú (chủ yếu là người gốc Nhật), dân vĩnh trú, vợ hoặc chồng của người Nhật. Những tư cách lưu trú này không hạn chế hoạt động khi lưu trú nên có thể lao động nhận tiền công trên các lĩnh vực.

Thứ ba, dạng thực tập sinh, chương trình được hình thành với mục tiêu hợp tác quốc tế với các nước đang phát triển.

Thứ tư, những người hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể như ứng viên điều dưỡng, y tá người nước ngoài dựa trên EPA. Với tư cách lưu trú xác định có thể làm việc và hưởng lương theo nội dung được phép.

Thứ năm, những người lao động ngoài tư cách lưu trú như lưu học sinh làm thêm. Trong phạm vi không gây ảnh hưởng đến tư cách lưu trú, lưu học sinh được làm thêm 28 giờ 1 tuần, và được nhận thù lao[4].

Tại Nhật Bản, trong những lĩnh vực lao động giản đơn, về nguyên tắc không chấp nhận lao động người nước ngoài, song với việc xây dựng tư cách lưu trú mới, Nhật Bản chính thức tiếp nhận người lao động trong các lĩnh vực này. Với chế độ mới, có thể nhận tư cách lao động nếu đỗ kỳ thi đánh giá kỹ năng cụ thể trong các lĩnh vực xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ khách sạn, đóng tàu, những lĩnh vực mà thiếu hụt người lao động và ít người Nhật Bản có nguyện vọng muốn làm. Những lĩnh vực này, vẫn có người lao động bằng cách sử dụng chế độ thực tập sinh làm cơ sở pháp lý, nhưng nay có thể tiếp nhận người lao động trực tiếp. Tại kỳ họp quốc hội vào mùa thu tới đây, luật sẽ được điều chỉnh để có thể thực thi vào tháng 4 năm 2019.

Có thể thấy rằng, trừ phi tỉ suất sinh của Nhật Bản tăng, không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp nhận lao động di cư. Theo thống kê của chính phủ, để duy trì dân số 100 triệu người, mỗi năm cần 200000 người di cư. Dân số mỗi ngày giảm khoảng hơn 1000 người. Đây thực sự là mối đe dọa nghiêm trọng với tài chính quốc gia. Nợ công chính phủ đã lên mức gấp hơn 2,5 GDP[5]. Với tình hình xã hội Nhật Bản hiện nay, khả năng tăng tỉ suất sinh khó có tính khả thi nên quyết định của chính quyền thủ tướng Shinzo Abe là hợp lý.

Đồng thời, đây cũng là hành động mạnh mẽ bởi liên quan đến di dân vốn là vấn đề nhạy cảm ở bất kỳ quốc gia, đặc biệt tại Nhật Bản nhiều người dân lo ngại người nước ngoài phạm pháp, làm mất trật tự xã hội. Thủ tướng Abe dám đối mặt với vấn đề tiếp nhận lao động người nước ngoài, chủ đề mang tính chính trị thường bị né tránh. Trước đó, Bộ tư pháp đã bàn về việc tiếp nhận lao động giản đơn từ năm 2015 và lần này chính phủ dũng cảm đề xuất đề án trước quốc hội. Tình hình thực tế cuộc sống đang có sự thay đổi, người dân Nhật Bản bắt đầu nhận thức rằng ngăn cản lao động người nước ngoài ảnh hưởng lớn đến đời sống hàng ngày hơn là việc tiếp nhận họ. Nhưng rõ ràng để dẫn dắt sự thay đổi này còn nhiều việc phải làm đối với thủ tướng Shinzo Abe.

Phương châm cơ bản của cơ chế tiếp nhận mới có lưu ý đến vấn đề di dân nên việc mang theo gia đình về cơ bản không được chấp nhận. Nhưng trong quá trình lưu trú, nếu được chấp nhận là lao động chất lượng cao, có thể chuyển sang tư cách lưu trú thuộc lĩnh vực chuyên môn, kỹ thuật, bản thân người lao động có nguyện vọng có thể tiếp tục lao động tại Nhật Bản và mang theo gia đình.

Liên quan đến việc tiếp nhận lao động, năm 2012, Nhật Bản mở rộng cửa đối với người lao động có trình độ cao, tạo điều kiện lưu trú với người nước ngoài có kiến thức và trình độ chuyên môn. Nhưng tiếp nhận cơ hội đó chỉ khoảng vài nghìn người lao động nước ngoài. Theo điều tra của Trung tâm sức mạnh cạnh tranh thế giới IMD năm 2016, người lao động có kỹ năng cao xem Nhật Bản là nước sự hấp dẫn thấp nhất trong số 11 nước châu Á[6].

Thực trạng này được lý giải phần nào vì Nhật Bản có nền văn hóa đảo quốc đặc trưng, mức độ sử dụng tiếng Anh không cao. Hàn Quốc cũng giống Nhật Bản đang trong giai đoạn đầu thời kỳ biến động dân số, đã đón chào lao động giản đơn người nước ngoài. Hàn Quốc cũng nhanh hơn Nhật Bản trong việc sử dụng lao động người nước ngoài có kỹ năng cao.

Chính phủ Nhật Bản muốn thông qua chế độ lưu trú mới, đến năm 2025 có thể tiếp nhận hơn 500.000 lao động trong 5 lĩnh vực đề cập ở trên. Theo báo Kinh tế Nhật Bản, dự tính trong lĩnh vực xây dựng năm 2025 thiếu khoảng 780000-930000 người lao động, mục tiêu đảm bảo 300.000 lao động. Trong lĩnh vực nông nghiệp, với tư cách lưu trú mới, có thể tiếp nhận 26.000-83.000 người. Trong lĩnh vực điều dưỡng, hộ lý, bắt đầu mở rộng tiếp nhận nguồn nhân lực người nước ngoài, có lẽ số lao động này sẽ tăng trong tương lai[7]. Vấn đề là tiếp nhận và tuyển chọn như thế nào người nước ngoài có nguyện vọng làm việc tại Nhật Bản. Tới đây, tùy theo mức độ khó dễ của bài kiểm tra đánh giá kỹ năng và năng lực tiếng Nhật cần thiết cho công việc sẽ quyết định chất lượng người lao động.

Phan Cao Nhật Anh

Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

[1] Tin NHK ngày 13/4/2018

https://www3.nhk.or.jp/nhkworld/vi/

[2] 外国人労働者128万人 過去最高、厚労省 外国人頼み一段と

https://www.nikkei.com/article/DGXMZO26189750W8A120C1EA4000/

[3] 外国人労働者拡大へ新資格 最長10年在留可能に

https://www.sankei.com/economy/news/180605/ecn1806050036-n1.html

[4] 日本で就労する外国人のカテゴリー(総数 約127.9万人の内訳)

http://www.mhlw.go.jp/stf/seisakunitsuite/bunya/koyou_roudou/koyou/gaikokujin/gaikokujin16/category_j.html

[5], [6] 外国人労働者受け入れは日本の宿命

https://jp.wsj.com/articles/SB10619724222342013566304584299564059843106

[7] 外国人の「単純労働者」を受け入れへ

http://business.nikkeibp.co.jp/atcl/report/16/021900010/053100068/

 

 

 

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn