GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 11 NĂM 2018

Đăng ngày: 28-11-2018, 07:42

Nền kinh tế Nhật Bản suy giảm tăng trưởng trong Q3/2018. Đây là lần suy giảm tăng trưởng thứ hai trong năm nay. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu cá nhân yếu và đầu tư công của Chính phủ giảm mạnh. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế trong quý này còn chịu sự tác động của các thảm họa thiên nhiên xảy ra trong thời gian gần đây tác động tiêu cực đến các hoạt động kinh doanh và làm giảm năng lực xuất khẩu của Nhật Bản.

Chỉ số PMI sản xuất trung bình trong Q3 trở nên ảm đạm hơn so với Q2. Bên cạnh việc khẳng định niềm tin doanh nghiệp yếu hơn, chỉ số PMI tháng 10 cũng cho thấy tình trạng nhu cầu nước ngoài suy giảm, với các đơn hàng xuất khẩu trượt dốc trong tháng. Sự đóng góp của khu vực bên ngoài vào tăng trưởng trong quý này có thể đã dịu bớt do giá dầu tăng cao trên cán cân thương mại - ghi nhận mức thâm hụt trong tháng 7 và tháng 8. Cuối cùng, tiêu dùng cá nhân có khả năng yếu trong Q3 do tăng trưởng tiền lương vẫn tiếp tục giảm trong tháng 10[1].

Có thể thấy một số đặc điểm nổi bật của kinh tế Nhật Bản trong tháng 11/2018 như sau.

Kinh tế Nhật Bản ảm đạm trong Q3 do ảnh hưởng bởi thiên tai: Nền kinh tế quốc nội Nhật Bản tiếp tục suy giảm trong Q3 năm nay do nhiều thiên tai xảy ra gây cản trở xuất khẩu. Kinh tế Nhật Bản đang có dấu hiệu đuối sức với mức tăng trưởng 1,2% hằng năm vào kỳ giữa tháng 7 và tháng 9.

Năm nay, Nhật Bản đã hứng chịu một đợt sóng thần và động đất lớn, khiến cho mức độ suy giảm kinh tế còn lớn hơn dự kiến ban đầu. Bên cạnh đó, sự trì trệ này cũng bị ảnh hưởng từ việc Mỹ với Trung Quốc đang có căng thẳng leo thang trong cuộc chiến thương mại[2].

GDP tăng trưởng 1,2% trong kỳ hạn được điều chỉnh theo mùa hàng năm (SAAR), tương ứng với mức tăng 3% đã sửa đổi (đã báo cáo trước đây: + 1,9% theo quý SAAR) và kỳ vọng thị trường thấp hơn mức giảm 1%. Trong điều kiện hàng năm, GDP tăng 0,3%, giảm so với mức tăng 1,4% của Q2 (báo cáo trước đây: + 1% so với cùng kỳ).

Mặc dù thị trường lao động khan hiếm và tăng trưởng tiền lương mới, tiêu dùng tư nhân vẫn giảm 0,5% SAAR (Q2: + 2,6% qoq SAAR), trong khi tiêu thụ của chính phủ tăng 0,7% (Q2: + 0,8% qoq SAAR). Đầu tư cố định tăng trưởng 1,9% trong Q3 (Q2: + 7,2% qoq SAAR) do phần lớn chi tiêu đầu tư công giảm mạnh, cùng với sự sụt giảm trong đầu tư tư nhân phi dân cư.

Cuối cùng, khu vực bên ngoài bị suy yếu rõ rệt trong quý, một phần do thời tiết khắc nghiệt làm gián đoạn chuỗi cung ứng và các mặt hàng xuất khẩu của đất nước. Xuất khẩu giảm 7,1% trong Q3 (Q2: + 1,4% SAAR), trong khi nhập khẩu cũng giảm (Q2: -5,6% SAAR, Q2: + 4,2% SAAR). Mặc dù có sự sụt giảm mạnh về xuất khẩu, ngành này chỉ trừ đi 0,3 điểm phần trăm so với mức tăng trưởng trong quý 3, cải thiện nhẹ so với mức đóng góp âm của quý 2 là 0,4 điểm phần trăm[3].

Đơn đặt hàng máy móc giảm mạnh: Các đơn đặt hàng máy móc thiết bị chính (chỉ số hàng đầu về chi tiêu vốn trong khoảng thời gian từ 3 đến 6 tháng) đã ghi nhận sự co lại mạnh nhất kể từ năm 1987. Sự giảm mạnh này là do một trận động đất mạnh và một cơn bão vào tháng 9. Các đơn đặt hàng máy móc tiêu đề đã giảm 18,3% trong tháng 10, tương ứng với mức tăng 6,8% trong tháng 9. Cả hai đơn đặt hàng sản xuất và phi sản xuất đều ghi nhận sự sụt giảm mạnh trong tháng 10 cũng như các đơn đặt hàng xuất khẩu.

So với cùng tháng của năm trước, đơn đặt hàng máy móc lõi đã tăng trưởng 7% trong tháng 10, tương ứng với mức tăng 12,6% của tháng 9. Sự thay đổi trung bình hàng năm trong các đơn đặt hàng máy móc lõi giảm từ 3,5% trong tháng 9 xuống 3,2% trong tháng 10[4].

Niềm tin tiêu dùng giảm xuống gần mức thấp nhất trong 2 năm: Tâm lý tiêu dùng giảm từ 43,4 trong tháng 9 xuống còn 43,0 trong tháng 10, đánh dấu mức giảm thấp nhất kể từ tháng 1 năm 2017. Chỉ số niềm tin tiêu dùng đo lường kỳ vọng của người tiêu dùng trong 6 tháng tới theo thang điểm từ 0-100; thang điểm 100 đạt được khi tất cả những người được hỏi đều cho rằng mức sống của họ được cải thiện.

Người tiêu dùng đã chú ý hơn về sự tự tin của họ trong tăng trưởng thu nhập cũng như triển vọng công việc. Hơn nữa, người tiêu dùng ít sẵn sàng mua hàng hóa lâu bền. Về giá cả, kỳ vọng giá cao hơn tăng trong tháng 10, với 82,9% số người được hỏi dự đoán giá sẽ tăng cao hơn (tăng 1,2 điểm phần trăm so với khảo sát của tháng trước).

Các chuyên gia dự báo của FocusEconomics dự đoán tiêu dùng cá nhân của Nhật Bản sẽ tăng 1,0% trong năm 2019, không thay đổi so với dự báo của tháng trước. Năm 2020, mức tiêu dùng cá nhân được dự báo tăng 0,2%[5].

Nhật Bản và Ấn Độ ký thỏa thuận hoán đổi tiền tệ trị giá 75 tỷ đô la: Nhật Bản và Ấn Độ đã ký một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương trị giá 75 tỷ USD, mang lại sự ổn định hơn cho thị trường ngoại hối và thị trường vốn trong nền kinh tế lớn thứ ba châu Á. Hiệp định được ký kết trong chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Narendra Modi nhằm tăng cường hợp tác tài chính và kinh tế giữa hai nước, theo một tuyên bố chung.

Nhật Bản và Ấn Độ đã có một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ lên đến 50 tỷ đô la đã hết hạn. Đồng Rupees của Ấn Độ đã giảm 15% so với đồng đô la kể từ tháng 1 trong bối cảnh lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ tăng vọt. Thủ tướng Abe nhấn mạnh tầm quan trọng cơ bản của mối quan hệ Ấn Độ - Nhật Bản đối với trật tự khu vực và quyết tâm thúc đẩy “kỷ nguyên mới trong quan hệ Ấn Độ - Nhật” để hợp tác hơn nữa cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực[6].

Dựa trên tầm nhìn chung, hai Thủ tướng nhắc lại cam kết vững chắc để cùng hợp tác hướng tới một Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Hai nhà lãnh đạo cũng khẳng định, sự thống nhất và trung lập của ASEAN là trọng tâm của khái niệm Ấn Độ - Thái Bình Dương, bao trùm và rộng mở cho tất cả. Hai nhà lãnh đạo cũng chia sẻ, sẵn sàng mở rộng hợp tác với Mỹ và các đối tác khác. Phát biểu với giới truyền thông, ông Modi nói rằng, "Nếu không có sự hợp tác của Ấn Độ và Nhật Bản, thế kỷ XXI sẽ không thể là thế kỷ của châu Á. Ngài Abe và tôi đã đồng ý với đối thoại “2 + 2” cấp Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng giữa hai nước nhằm thúc đẩy hòa bình và ổn định trên thế giới. Cả hai chúng tôi đều đồng ý rằng, chúng tôi sẽ tăng cường quan hệ đối tác trên mọi lĩnh vực từ kỹ thuật số với không gian mạng, từ sức khỏe đến bảo vệ, và từ biển đến không gian".

Ấn Độ và Nhật Bản cũng đã trao đổi hiệp định chứng phiếu và vay vốn cho đợt vay hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản thuộc dự án đường sắt cao tốc Mumbai - Ahmedabad. Ông Modi đánh giá cao vai trò của Nhật Bản trong việc thúc đẩy kết nối thông qua các dự án cơ sở hạ tầng chất lượng như hành lang vận chuyển hàng hóa chuyên dụng phía Tây và hành lang công nghiệp Delhi - Mumbai. Nhật Bản đang tài trợ 80% nguồn vốn của dự án tàu cao tốc Mumbai - Ahmedabad thông qua khoản vay mềm trị giá 7,9 triệu Rupees với lãi suất 0,1%, với kỳ hạn kéo dài hơn 50 năm và thời gian tạm ngừng 15 năm. Bản tuyên bố viết rằng: "Hai nhà lãnh đạo tái khẳng định cam kết chung về việc loại bỏ vũ khí hạt nhân và kiên trì tăng cường hợp tác quốc tế để giải quyết những thách thức về phổ biến hạt nhân và khủng bố hạt nhân".

Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh rằng, tất cả các nước phải đảm bảo lãnh thổ của họ không được sử dụng cho các cuộc tấn công khủng bố ở các nước khác, đây hiển nhiên là một ám chỉ đối với Pakistan, quốc gia bị cáo buộc cung cấp nơi ẩn náu an toàn cho những kẻ khủng bố[7].

Trần Ngọc Nhật

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

[1] Japan Economic Outlook 23/10/2018

https://www.focus-economics.com/countries/japan

[2] GDP Nhật Bản lại chao đảo vì thiên tai

https://ngaynay.vn/kinh-te/gdp-nhat-ban-lai-chao-dao-vi-thien-tai-131800.html

[3] Japan: Economy falters in Q3, hampered by natural disasters

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/gdp/economy-falters-in-q3-hampered-by-natural-disasters

[4] Japan: Machinery orders plummet to an all-time low

https://www.focuseconomics.com/countries/japan/news/investment/machinery-orders-plummet-to-an-all-time-low-in-september

[5] Japan: Consumer confidence falls to nearly two-year low in October

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/consumer-confidence/consumer-confidence-falls-to-nearly-two-year-low-in-october

[6] India and Japan seal $75bn currency swap deal

http://newsonjapan.com/html/newsdesk/article/123970.php

[7] Ấn Độ, Nhật Bản ký kết hiệp định hoán đổi tiền tệ trị giá lên đến 75 tỷ USD, sẽ bắt đầu các cuộc đàm phán “2 + 2”

http://cis.org.vn/article/3294/an-do-nhat-ban-ky-ket-hiep-dinh-hoan-doi-tien-te-tri-gia-len-den-75-ty-usd-se-bat-dau-cac-cuoc-dam-phan-2-2.html

 

 

 

 

 

 

 

 

Tin tức khác

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản tăng đáng kể lên 2.758,78 tỷ yên vào tháng 1 năm 2025 từ 1.766,54 tỷ yên cùng kỳ năm trước, vượt quá sự đồng thuận ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025

Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng vọt lên 130,94 tỷ yên vào tháng 12 năm 2024 từ 32,35 t ...

CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG

Các khoản vay tiêu dùng tăng vọt và tiền lương trì trệ dẫn đến khó khăn tài chính kỷ lục trong các hộ gia đình. Ngày càng nhiều người Nhật phải vật ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản giảm xuống còn 117,62 tỷ yên vào tháng 11 năm 2024 từ mức 813,87 yên cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức thâm hụt thươ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn