GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

SO SÁNH VỐN XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC (phần 1)

Đăng ngày: 19-03-2019, 17:35

 

SO SÁNH VỐN XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC (phần 1)

1. Khái niệm “Vốn xã hội”

Putnam trong cuốn “Triết học của chủ nghĩa dân chủ” (1993) đã định nghĩa về vốn xã hội như sau: “Vốn xã hội là đặc trưng của hệ thống xã hội” như “lòng tin”, “các cam kết” và “mạng lưới” có thể cải thiện được hiệu quả của xã hội bằng cách làm cho các hành động hợp tác trở nên dễ dàng hơn”.

Vào năm 2000, Putnam tiếp tục xuất bản cuốn sách “Chơi bowling một mình” lừng danh, trở thành cuốn sách bán chạy nhất, trong đó ông đề cập đến vốn xã hội như sau: “Vốn xã hội biểu thị mối quan hệ giữa các cá nhân, có nghĩa nó là “mạng lưới mang tính xã hội”, trong đó, các quy tắc về “lòng tin” và “cam kết” nảy sinh từ nó. Về điểm này, vốn xã hội có quan hệ mật thiết với cái gọi là “đạo đức công dân”. Sự khác nhau nằm ở chỗ: Đạo đức công dân phát huy sức mạnh cao nhất của nó khi được lấp đầy bởi mạng lưới dầy đặc của các quan hệ xã hội mang tính tương hỗ (giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau). Và chính ở đây, “vốn xã hội” mới nảy nở. Đạo đức công dân tràn ngập mà xã hội lại được tạo bởi những con người cô độc thì chưa chắc vốn xã hội đã giàu có ở xã hội ấy”[1].

Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các lý thuyết của Putnam, trong cuộc hội thảo diễn ra vào năm 2000 do Cơ cấu hợp tác phát triển kinh tế (OECD) và Cục phát triển vốn con người của Canada đồng tổ chức, các nhà khoa học đã định nghĩa vốn xã hội là “mạng lưới tuân theo các quy tắc, giá trị quan và sự hiểu biết chung, nhằm làm cho việc cộng tác giữa các cá nhân trong mỗi “nhóm” (group) hoặc giữa các nhóm trở nên dễ dàng hơn”. Có nghĩa là, vốn xã hội chính là “mạng lưới”, là các “cam kết cộng tác” và “lòng tin”. Những định nghĩa này đều cho rằng vốn xã hội không chỉ tồn tại ở một cá nhân, mà nó tồn tại trong toàn thể cộng đồng, nó là thứ thuộc về cộng đồng và xã hội.

Dựa trên lý thuyết về vốn xã hội của Putnam, bài viết sẽ so sánh và phân tích sự khác nhau của vốn xã hội ở Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhật Bản và Hàn Quốc đều được xếp vào nhóm các quốc gia có vốn xã hội bậc trung đến trung - cao, theo kết quả cuộc điều tra Khảo sát Giá trị thế giới (WVS) năm 2010. Các chỉ số cho thấy mức độ lòng tin xã hội nói chung của người Nhật Bản là 43,1% - xếp thứ 10 trên Thế giới, cao hơn con số 27,3% của Hàn Quốc - quốc gia đứng thứ 28. Về mức độ tham gia xã hội, Nhật Bản với chỉ số 36% người dân tham gia vào các đoàn thể xã hội, xếp thứ 33, trong khi chỉ số này ở Hàn Quốc là 69,1%, xếp thứ 10 Thế giới. Tuy nhiên, các nhà xã hội học Nhật Bản cho rằng kết quả của cuộc điều tra WVS chưa phản ánh chính xác mức độ tham gia xã hội của công dân Nhật Bản cũng như lòng tin xã hội. Theo Sakamoto (2010), con số này lớn hơn nhiều, bởi ở trên khắp đất nước Nhật Bản, chỉ tính riêng hội phố đã có trên 300.000 tổ chức, và có tới 50% người dân tham gia hội phố. Nếu tính cả các hội tự trị khác như hội phụ nữ, hội trẻ em, hội người già, hội PTA (hội giáo viên và phụ huynh học sinh), hội thể thao, hội sở thích… thì con số tham gia sinh hoạt là 73,0%, còn số người không sinh hoạt thường xuyên mà chỉ đóng góp tiền bạc lên đến 95%.

Bảng 1. So sánh vốn xã hội của Nhật Bản, Hàn Quốc nhìn từ kết quả Khảo sát Giá trị Thế giới (WVS) [2]

SO SÁNH VỐN XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC (phần 1)

SO SÁNH VỐN XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC (phần 1)

Về đặc điểm vốn xã hội, vốn xã hội ở Nhật Bản chủ yếu hình thành trong cộng đồng địa lý và các tổ chức tự trị địa phương, trong khi vốn xã hội ở Hàn Quốc lại mạnh trong gia đình và các mối quan hệ họ hàng. Mặc dù cùng nằm trong khu vực văn hóa phương Đông, chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, đặc biệt là Nho Giáo, nhưng giữa hai nước có sự khác nhau như vậy là do Nhật Bản tiến hành công nghiệp hóa sớm hơn, tốc độ đô thị hóa cao, hệ thống gia đình gia trưởng truyền thống ở nông thôn đã bị phá vỡ từ những năm 1970, thay thế bằng gia đình hạt nhân những năm 1980-1990, sau đó là gia đình một người (hộ độc thân) vào thập niên 2000. Theo số liệu thống kê năm 2005, các hộ độc thân ở Nhật Bản đã chiếm tới 27,9%, gần 1/3 tổng số gia đình ở Nhật Bản. Tỉ suất sinh thấp (1,26 người con/phụ nữ) làm giảm dân số trẻ nghiêm trọng, tỉ lệ trẻ em dưới 14 tuổi năm 2015 là 12,8% dân số, trong khi người già trên 65 tuổi chiếm tới 27,7% dân số vào năm 2017. Theo một cuộc điều tra về ý thức người Nhật Bản do hãng truyền thông NHK tiến hành liên tục từ 1993-2008, tỉ lệ người Nhật “nói không với hôn nhân” ở mức khá cao, trên dưới 50%; còn theo một kết quả điều tra khác do Văn phòng Nội các tiến hành năm 2014, tỉ lệ này tuy có giảm nhưng vẫn ở mức 30% - 40%. Ý thức lập gia đình, sinh con, và con cái lớn lên có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già đã dần mất đi trong xã hội Nhật Bản hiện đại, gia đình đổ vỡ, trong khi chủ nghĩa cá nhân trở nên mạnh mẽ. Tất cả những điều này làm ảnh hưởng sâu sắc đến vốn xã hội ở Nhật Bản. Một khảo sát năm 2013 của Murakami cho thấy “Ở Nhật Bản, mức độ lòng tin vào “gia đình”, “họ hàng” trong trường hợp xảy ra khúc mắc nhỏ trong cuộc sống không cao như Việt Nam… Nhìn chung, người Nhật Bản có xu hướng tin vào chế độ chính trị và các tổ chức xã hội”[3].

Khác với Nhật Bản, ở Hàn Quốc vốn xã hội trong gia đình và trong quan hệ họ hàng vẫn còn rất mạnh mẽ. Thống kê về lòng tin xã hội ở Hàn Quốc cho thấy “lòng tin cao nhất dành cho “gia đình” với 92%, “họ hàng” 71%..., “chính phủ” 46% và “quốc hội” 39%”. Còn theo Viện Nghiên cứu khoa học xã hội - Đại học Quốc gia Seoul, gia đình là đối tượng cung cấp nhiều nhất sự giúp đỡ cho cá nhân với 36,4%, tiếp đến là bạn cùng học 17,5% và hàng xóm 11,9%, trong đó, gia đình là nơi chủ yếu chia sẻ, tâm sự các vấn đề lo âu của cá nhân (46%), hỗ trợ tiền bạc (40%), trong khi bạn đồng học chủ yếu chia sẻ, tâm sự các vấn đề riêng tư (66,3%)[4]. “Chủ nghĩa gia đình” là một đặc tính dân tộc của người Hàn Quốc, không ở đâu trên Thế giới mà mô hình doanh nghiệp gia đình lại thành công như Hàn Quốc, bởi gia đình là nơi mỗi cá nhân kế thừa các quan hệ xã hội, làm giàu thêm cho vốn xã hội của mình. Sự coi trọng của mỗi cá nhân đối với gia đình mình, cũng như sự bao bọc, hỗ trợ về vật chất lẫn tinh thần của gia đình đối với từng cá nhân, hay quan hệ tôn ti trật tự, trên - dưới rõ ràng chính là đặc điểm văn hóa ứng xử Hàn Quốc, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo. Có thể nói, vốn xã hội ở Hàn Quốc với đặc điểm “co cụm vào trong, hình thành các liên kết mạnh theo kiểu “vốn xã hội tổng hợp” (trong gia đình, họ hàng hay các nhóm, tổ chức được đặt lòng tin cao), khác với Nhật Bản có chiều hướng mở rộng ra các hoạt động công dân và cộng đồng, gia tăng hình thái “vốn xã hội bắc cầu”.

2. Lòng tin xã hội

Theo một kết quả phân loại xã hội dựa trên chỉ số “lòng tin”, Nhật Bản được xếp loại “xã hội lòng tin cao” cùng với các quốc gia như Đức, Mỹ, trong khi Hàn Quốc xếp loại “xã hội lòng tin thấp”. Theo đó, trong 1.362 đối tượng người Nhật tham gia điều tra, có tới 39,6% nghĩ rằng “nhìn chung có thể tin tưởng được mọi người”, 52,4% cho rằng “cẩn thận cũng không thừa”, 46,6% cho rằng “bạn bè và người quen rất quan trọng”. Con số này ở Hàn Quốc là 27,3% “tin tưởng được hầu hết mọi người”, 72,7% “cẩn thận cũng không thừa” và 44,8% cho rằng “bạn bè và người quen rất quan trọng”, chiếm trên tổng số 1.200 đối tượng tham gia điều tra.

Bảng 2. So sánh lòng tin xã hội[5]

Đơn vị: người; %

SO SÁNH VỐN XÃ HỘI Ở NHẬT BẢN VÀ HÀN QUỐC (phần 1)

Nhìn lại kết quả điều tra ở Bảng 1, Nhật Bản xếp thứ 10 Thế giới với chỉ số lòng tin xã hội cao, lên đến 43,1%. Tuy nhiên, một số học giả Nhật Bản lại nghi ngờ rằng kết quả này có thể thay đổi theo cách đặt câu hỏi, bởi khi tiến hành điều tra tương tự với phiên bản Nhật Bản (JGSS)[6] với 4 phương án trả lời, kết quả cho thấy: 21,2% người Nhật cho rằng “nhìn chung có thể tin người”, 14,7% trả lời rằng “không thể”, nhưng con số trả lời “tùy từng trường hợp” lên 63,5%, không trả lời chỉ chiếm 0,6%. Nếu như câu hỏi này ở phiên bản quốc tế chỉ có 2 lựa chọn “Nhìn chung có thể tin tưởng mọi người” và “Cẩn thận cũng không thừa”, thì rõ ràng có sự mập mờ trong lựa chọn thứ 2 “cẩn thận cũng không thừa”, bởi chưa chắc những người lựa chọn câu trả lời này không tin tưởng người khác, vấn đề chỉ là “tùy từng người, tùy từng trường hợp mới có thể tin được”. Như vậy, lòng tin xã hội nói chung của người Nhật có lẽ còn cao hơn con số 43,1% (đứng thứ 10 thế giới) trong bảng xếp hạng.

Ở Hàn Quốc, chỉ số lòng tin xã hội không cao (lòng tin xã hội nói chung 27,3%, tỉ lệ tin vào chính phủ 46%, quốc hội 39%), nhưng chỉ số lòng tin đối với gia đình và họ hàng đều ở mức cao (92% và 71%). Hiện tượng này có nguyên nhân xuất phát từ đặc tính dân tộc đề cao “chủ nghĩa gia đình” ở Hàn Quốc. Cũng như Nhật Bản, Hàn Quốc là quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Hán, chủ yếu là Nho giáo. Tuy nhiên, cơ cấu chữ Tín (lòng tin) trong Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín mà Nho giáo đề cao, du nhập vào Hàn Quốc đã có những thay đổi đáng kể so với Trung Quốc, Nhật Bản. Theo Choi Yun Ju, dưới thời thực dân Nhật cai trị bán đảo Triều Tiên, chính sách thống trị làm cho cộng đồng truyền thống bị phá vỡ, hình thức thống trị phân quyền, sử dụng phái thân Nhật khiến cho sự đối đầu và nghi kỵ giữa các phe phái trong nội bộ Triều Tiên tăng lên. Điều quan trọng là “chế độ chính trị công” dựa trên mô hình của Nhật Bản đã khiến cho người dân bán đảo Triều Tiên phản kháng bằng cách tăng cường mối quan hệ cố kết và lòng tin trong gia đình, dòng tộc của họ, hơn là những mối quan hệ xã hội. Sự phản kháng của người dân đến từ mọi mặt: luật pháp, chế độ chính trị, giáo dục..., và chính quyền trở thành “bất tín” đối với người dân. Một nguyên nhân khác có thể kể đến là sau năm 1945, thay vì xây dựng một chính quyền dân chủ để phát triển kinh tế thì bán đảo Triều Tiên lại vướng vào cuộc nội chiến, tình hình chính trị, xã hội hỗn loạn, sau đó chế độ độc tài tồn tại trong thời gian khá dài càng làm mất đi lòng tin của người dân và cơ hội xây dựng một xã hội dân sự hiện đại.

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Trích từ Đề tài NCKH cấp Bộ “Vai trò của vốn xã hội trong bảo tồn văn hóa truyền thống ở Nhật Bản và Hàn Quốc – Kinh nghiệm đối với Việt Nam”

 

[1]ロバート・パットナム著、柴内康文訳(2000・訳2006)『孤独なボーリング―米国コミュニティーの崩壊と再生』柏書房出版 (Putnam, R.D. (2000), Shibanai Yasubumi dịch (2006), “Chơi bowling một mình: Sự sụp đổ và trỗi dậy của cộng đồng người Mỹ”, NXB. Kashiwa Shobo, Nhật Bản).

[2] 坂本治也「日本のソーシャル・キャピタルの現状と理論的背景」関西大学経済・政治研究所『ソーシャル・キャピタルと市民参加』関西大学経済・政治研究所研究双書第 150冊、2010 (Sakamoto (2010), “Vốn xã hội của Nhật Bản và bối cảnh từ góc độ lý thuyết”, Vốn xã hội và sự tham gia của cư dân, Viện Nghiên cứu kinh tế chính trị Đại học Kansai, Quyển 150, năm 2010)

[3] Murakami Shunsuke (2014), Nguyễn Quang Thuấn, Trần Quang Minh (chủ biên) “Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản 40 năm nhìn lại và định hướng tương lai”, NXB.Khoa học xã hội, tr.297.

[4] Cao Thị Hải Bắc (2017) “Một vài so sánh về đặc điểm vốn xã hội của người Việt Nam và người Hàn Quốc”.

[5] Nguồn: Choi Eun Ju (2009) “Nghiên cứu về tình hình hoạt động NPO và NGO ở Hàn Quốc”, tr.57

https://doors.doshisha.ac.jp/duar/repository/ir/14799/031000900003.pdf

[6] JGSS: Japanese General Social Survey (日本版総合社会調査).

 

 

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn