GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NHẬT BẢN

Đăng ngày: 4-12-2019, 15:53

Nhật Bản là một trong những cường quốc kinh tế trên thế giới, là quốc gia trong “top” đầu thế giới về thu nhập bình quân đầu người, các chỉ số phát triển con người (HDI)… nhưng một nghịch lý là chỉ số phát triển liên quan đến giới GDI (Gender related development index) và chỉ số vai trò của giới GEM (the Gender Empowerment Measure - thường được dùng để đo sự đóng góp của nam giới và nữ giới trong lĩnh vực hoạt động chính trị và kinh tế) ở Nhật Bản lại thấp hơn nhiều so với các chỉ số trên. Tại Nhật Bản phụ nữ luôn bị coi là tầng lớp thứ 2, điều này phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới trong xã hội Nhật Bản, mặc dù ở Nhật quyền bình đẳng nam nữ đã được quy định trong bản Hiến pháp được ban hành ngày 3 tháng 11 năm 1946. Đặc biệt gia đình Nhật Bản là nơi sự phân biệt, kỳ thị giới diễn ra khá rõ nét. Việc tuyệt đối hóa quyền uy của người chồng và sự phục tùng một cách vô điều kiện của người vợ là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh và gia tăng tình trạng bạo lực gia đình, coi thường, hạ thấp vị trí vai trò của người vợ, người mẹ trong gia đình.

Số gia đình do nữ làm chủ hộ chiếm tỷ lệ thấp

Cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống gia đình Nhật Bản vẫn bị chi phối mạnh bởi quan niệm gia đình truyền thống kiểu Nhật, được thừa nhận về mặt pháp lý ngay trong hệ thống Luật dân sự của Minh Trị. Theo Luật này, gia đình được hiểu một cách đơn giản là một biểu hiện cụ thể của “Ie”「家」(nhà), một khái niệm, một thực thể hữu hình được trao quyền trực hệ từ thế hệ này sang thế hệ khác. “Ie” là một nhóm phức hợp gồm những người có quan hệ bà con họ hàng với nhau, do người con trưởng「長男」(chounan) thừa kế, vừa thừa kế địa vị chủ “Ie”, vừa thừa kế tài sản gia đình. Theo quan niệm trên, vị thế của người nam giới, con trưởng đặc biệt được coi trọng, vị thế của người phụ nữ rất mờ nhạt, ít được luật pháp bảo đảm quyền lợi. Do đó, phụ nữ sau khi kết hôn phải chịu sự phụ thuộc và tuân theo quyếtđịnh của người chồng cũng là chủ hộ.

So với các quốc gia công nghiệp phát triển khác, Nhật Bản là nước có số hộ gia đình do phụ nữ làm chủ hộ thấp nhất. Đáng nói là trong số hộ gia đình do nữ là chủ hộ đa số hộ do nữ sống độc thân suốt đời, hộ gia đình đã ly hôn và con cái sống với người mẹ là chủ hộ gia đình. Chính do xu hướng phụ nữ không muốn kết hôn, ràng buộc về con cái, nghĩa vụ ngày một tăng ở Nhật Bản dẫn đến số hộ gia đình do nữ sống độc thân làm chủ hộ tăng lên.

Bảng 1. Tỷ lệ gia đình do nữ làm chủ hộ (%) [1]

BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NHẬT BẢN

Quan hệ bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình

Những năm trước và sau Chiến tranh Thế giới thứ hai tại Nhật Bản, hôn nhân truyền thống theo sự mai mối, sắp đặt của cha mẹ hai phía thông qua sự dàn xếp của người mối lái –“Nakoudo”「仲人」là chuyện gần như tuyệt đối. Sau đám cưới, người vợ phải đổi họ theo chồng và chuyển về nhà chồng sống cùng với cha mẹ, anh chị em chồng, trở thành một thành viên trong đại gia đình lớn có thể do người chồng hoặc cha của chồng làm người đứng đầu gia đình lớn đó. Chính hôn nhân truyền thống theo sự sắp đặt, tách biệt hòan tòan giữa hai khái niệm hôn nhân và tình yêu trong xã hội cũ đã đẩy rất nhiều người phụ nữ Nhật Bản vào những tình trạng tiêu cực trong đời sống gia đình như chồng không yêu thương, không quan tâm, đối xử tệ bạc thậm chí là ngoại tình. Những năm 60 – 70 là thời kỳ phát triển nhanh của nền kinh tế Nhật Bản, sự phát triển của ngoại thương cùng với sự thâm nhập của các hệ tư tưởng, văn hóa Mỹ, phương Tây đã có những ảnh hưởng nhất định đến các tầng lớp dân cư, nhất là đối với tầng lớp thanh niên và giới trí thức. Hôn nhân sắp đặt, đặc biệt là ở các thành phố, khu công nghiệp lớn tập trung đông dân, chỉ còn mang tính hình thức. Song ngày nay vẫn còn khá nhiều cuộc hôn nhân sắp đặt do nhiều ý kiến cho rằng hôn nhân theo sự mai mối, sắp đặt của cha mẹ mới đáp ứng được những đặc thù mang tính dân tộc của Nhật Bản. Ngày nay vẫn có đến 95% phụ nữ đã kết hôn theo họ chồng trong khi luật pháp quy định phụ nữ có quyền giữ nguyên họ.

Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, trong gia đình Nhật Bản, người chồng có tòan quyền quyết định đối với tài sản gia đình, vợ con cũng như các hoạt động kinh tế, nghỉ ngơi, giải trí của gia đình họ. Người vợ phải chịu nhiều sự bất bình đẳng, họ chỉ có thể tuân theo, chỉ có quyền thực hiện chứ không có quyền đề xuất kế hoạch. Có chăng chỉ những công việc, kế hoạch nhỏ người vợ mới có thể tự quyết định. Quyền hành của người chồng và sự phụ thuộc của người vợ trong gia đình được luật pháp bảo vệ trong lịch sử đã ảnh hưởng mạnh đến nhận thức xã hội, tâm lý, đạo đức của người Nhật. Sau Chiến tranh, những cải cách được tiến hành do áp lực của các lực lượng tiến bộ, các phong trào đòi cải cách dân chủ đã dẫn đến thay đổi những điểm căn bản trong Hiến pháp điều chỉnh các mối quan hệ qua lại giữa các cặp vợ chồng do đó chế độ gia trưởng bị xóa bỏ, quan hệ giữa vợ chồng cũng trở nên bình đẳng hơn. Đối với quan hệ vợ - chồng, các quyền lợi, nghĩa vụ của vợ chồng, chủ quyền sở hữu tài sản trước, trong hôn nhân đều được ghi trong Bộ luật dân sự (năm 1946).[2]

Trên thực tế sự bình đẳng vợ - chồng tuy được thừa nhận về mặt pháp lý song không có nghĩa là vị trí của người vợ trong gia đình được xem trọng như người chồng. Ở một số vùng nông thôn tại Nhật Bản, nhiều phong tục và quy tắc cổ hủ vẫn còn tồn tại, nam giới vẫn giữ quyền lực tối cao trong mọi lĩnh vực của đời sống, như việc người chồng và con trai được ưu tiên phục vụ trước trong bữa ăn; khi người chồng tiếp khách trong nhà, người vợ dành thời gian phục vụ và phải ăn uống ở trong bếp; phụ nữ lùi lại để chồng đi trước, thậm chí là nhường ghế cho chồng trên tàu điện ngầm… Trong sinh hoạt hàng ngày, thường là những người vợ giúp đỡ chồng mặc áo khoác, đi giày, đội mũ. Trong giao tiếp giữa hai vợ chồng, người vợ trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải dùng những từ rất kính trọng với chồng mình, còn người chồng thì dùng những đại từ nhân xưng và thán từ ít kính trọng hơn để nói với vợ. Người vợ khi nói chuyện, trao đổi trực tiếp với người thứ ba thường đề cao quá mức về chồng mình như “ngài” hoặc “chủ nhân” – “shujin”「主人」. Trong khi đó, những người chồng khi nói về vợ mình thường sử dụng những từ ít kính trọng hơn “kanai”「家内」hoặc “tsuma”「妻」. Trong cách nói sử dụng thể mệnh lệnh và cấm chỉ trong tiếng Nhật để bắt buộc hoặc nghiêm cấm ai đó thực hiện một hành vi nào đó, là các cách nói mang sắc thái mạnh, áp đặt và đe dọa thì chỉ có nam giới mới được dùng khi nói chuyện với nhau hoặc khi nói với vợ con, người có địa vị, tuổi tác thấp hơn. Ví dụ: Hayaku Nero (早く寝ろ: Đi ngủ sớm!), Okureruna (遅れるな: Cấm đi muộn!). Quan hệ về mặt tinh thần của phần lớn các cặp vợ chồng Nhật Bản cũng khá tẻ nhạt, họ ít khi tâm sự với nhau về vấn đề công việc hay những hoạt động của họ ngoài xã hội và thường chỉ nói với nhau về vấn đề con cái. Do nhịp độ lao động căng thẳng và áp lực công việc hàng ngày, người chồng thường rời nhà rất sớm và trở về rất muộn trong tình trạng mệt mỏi nên họ thường chỉ muốn đi nghỉ thay vì dành thời gian cho con cái hay hỏi han, tâm sự với vợ.

Bên cạnh những mối quan hệ bất bình đẳng trong gia đình, việc phụ nữ và trẻ em bị đặt dưới sự kiểm soát của người chồng, người cha không chỉ là nguyên nhân dẫn đến việc phụ nữ và trẻ em gái bị đối xử tệ bạc mà còn nghiêm trọng hơn là bị lạm dụng, ngược đãi, đánh đập. Theo thống kê từ Cục Cảnh sát Nhật Bản (National Police Agency - NPA), số vụ bạo hành gia đình được trình báo năm 2015 là 63.141 vụ trên cả nước, tăng 18 lần so với số liệu năm 2001 khi luật chống bạo hành gia đình đầu tiên ở Nhật được ban hành. Năm 2018, số vụ bạo hành gia đình đạt kỷ lục lên tới 77.482 vụ, trong đó nạn nhân là phụ nữ chiếm tới 79,4%.[3] Mặc dù Nhật Bản đã cải thiện hệ thống nhận trình báo và điều tra bạo hành gia đình từ năm 2011 song bạo hành gia đình vẫn là loại tội phạm ít được trình báo nhất mặc dù nó chiếm tới 1/5 trong số các loại tội phạm. Hơn nữa, chỉ có dưới 10% tội phạm bạo hành gia đình bị bắt giữ trong khi số phụ nữ tử vong do bạo lực gia đình ngày càng tăng.

Theo kết quả điều tra do Văn phòng Nội các Nhật Bản tiến hành năm 2008 với nội dung “Khảo sát tình trạng bạo hành giữa nam và nữ” ngẫu nhiên với 5000 nam nữ độ tuổi trên 20, số phụ nữ trả lời đã từng “nhiều lần” bị chồng bạo hành (tinh thần, thể chất, hành vi giới) là 10,8% (so với 2,9% của nam giới). Số nữ trả lời “vài lần” từng bị chồng bạo hành là 22,4% (so với 14,9% của nam giới), và số nữ trả lời “ít nhất một lần” là 33,2% (so với 17,7% của nam giới). Theo một thống kê khác thì có đến 92,4% nữ giới là nạn nhân của các vụ án hình sự như giết người, gây thương tích, tấn công… do bạn đời gây ra. Ngoài ra hàng năm, số lượng phụ nữ Nhật Bản đến các Trung tâm phòng chống bạo lực gia đình yêu cầu tư vấn đều tăng (tính từ 4/2009 đến 3/2010 đã có tới 72.792 lượt người tới 193 cơ sở tư vấn hỗ trợ khắp cả nước để xin tư vấn).[4]

Bất bình đẳng trong phân công công việc giữa vợ và chồng trong gia đình

Quan niệm cần thiết phải phân chia nghĩa vụ giữa vợ và chồng trong gia đình từ thời xa xưa đã bám rễ trong ý thức người dân, là cơ sở của tư tưởng bất bình đẳng giữa vợ - chồng ở Nhật Bản. Quan niệm của người Nhật nói chung đều cho rằng công việc của người chồng là kiếm tiền ngoài gia đình, còn người vợ là người ở nhà chăm sóc, dạy dỗ con cái, chăm sóc cha mẹ già và làm các công việc nội trợ cũng như quản lý ngân sách gia đình. Chính sự phân công lao động quá rõ ràng như vậy dẫn đến hậu quả là người chồng chỉ biết đến công việc cơ quan, ngược lại người vợ chỉ biết đến công việc trong ngôi nhà của mình. Hết giờ làm việc, người chồng lại đi chơi bời, nhậu nhẹt với bạn bè thay vì về nhà giúp vợ làm việc nhà và chăm sóc con cái. Người vợ phải quen với điều đó và không được ngăn cản chồng. Số không nhỏ các cặp vợ chồng lấy nhau do mai mối lại bị tác động bởi cuộc sống như vậy rất dễ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống gia đình mà người chịu thiệt thòi đa phần là phụ nữ.

Ngày nay, cùng với sự thay đổi của xã hội, khoảng hơn 60% số phụ nữ có chồng đã đi làm để tăng thêm thu nhập trong gia đình và người chồng dù ít hay nhiều cũng tham gia vào các công việc gia đình. Song tính truyền thống vẫn được bảo lưu khá mạnh và ảnh hưởng tới việc phân công trách nhiệm vợ chồng trong gia đình. Phụ nữ ngoài việc đi làm thêm thì trách nhiệm chính là phải đảm nhận hầu hết mọi công việc không được trả lương tại nhà đó là việc nhà và nuôi dạy con cái, thời gian làm việc cả ở ngoài xã hội và gia đình nhiều hơn, song thu nhập trung bình của phụ nữ chỉ bằng một nửa so với nam giới. Trên thực tế, mức độ tham gia làm việc nhà của nam giới còn rất hạn chế cả về thời gian và số lượng công việc. Sự tham gia các công việc nhà của đàn ông Nhật Bản thấp nhất trong số các quốc gia G7 và thấp hơn nhiều so với mức trung bình của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế). Theo thống kê của OECD năm 2014, phụ nữ Nhật Bản dành 225 phút và đàn ông Nhật Bản dành 31 phút mỗi ngày cho việc nhà và chăm sóc con cái (mức trung bình của OECD là 208 phút đối với phụ nữ và 90 phút đối với đàn ông). Thường thì người chồng chỉ có thể giúp vợ những việc đơn giản như đổ rác, lau bàn, mua đồ tạp hóa, chơi với con… song tỷ lệ số người tham gia không nhiều và tập trung ở những người trẻ tuổi, tần suất của những công việc này cũng chỉ giới hạn từ một đến hai lần trong một lần và thường là vào ngày nghỉ cuối tuần. Nếu so sánh với khối lượng công việc và thời gian tiêu tốn vào việc nhà cũng như chăm sóc con cái của người vợ thì rõ ràng là có sự chênh lệch rất lớn.

Mặt khác, mặc dù tỉ lệ phụ nữ đi làm ngày càng tăng trong những năm gần đây nhưng phần lớn những người vợ thường làm bán thời gian hoặc theo giờ vì còn gánh nặng công việc gia đình nên số tiền họ kiếm được chỉ chiếm một phần nhỏ ngân quỹ trong gia đình so với người chồng. Theo điều tra về thu nhập hộ gia đình, các gia đình mà cả hai vợ chồng cùng đi làm, tính trung bình thu nhập của người chồng chiếm tới hơn 80% tổng thu nhập của hộ gia đình, thu nhập của người vợ thường chỉ đủ chi trả chi phí học tập của con cái. Tỉ lệ hộ gia đình có thu nhập người vợ đóng góp ít hơn 20% chiếm tới 51,1%. [5] Những gia đình có cả hai vợ chồng đi làm lại thường tập trung ở những phụ nữ trên 35 tuổi, khi mà con cái đã đủ lớn. Nguồn thu nhập chính của gia đình chủ yếu do người chồng đảm trách. Từ đó có thể thấy một thực tế là cho dù luật pháp đã thay đổi theo chiều hướng công nhận sự bình đẳng trong quan hệ vợ chồng song chưa thực sự có sự đột biến căn bản nào về mặt nhận thức trong xã hội về vấn đề phụ nữ đi làm sau khi có gia đình. Những người phụ nữ có thu nhập thấp hoặc không có thu nhập thì sự phụ thuộc kinh tế vào người chồng là chủ yếu, đồng nghĩa với việc tiếng nói trong gia đình của họ cũng yếu hơn rất nhiều.

Vũ Phương Hoa

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

[1] Trần Mạnh Cát (2004), Gia đình Nhật Bản, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.126

[2] Nguyễn Hồng Vân (2014), Thực trạng gia đình Nhật Bản từ năm 1990 đến nay, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 12(166) 12 – 2014

[3] Cases of domestic violence reached record high, male victims increased

http://www.asahi.com/ajw/articles/

[4] Trần Thị Nhung (2013), Đối sách của các quốc gia và vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á về những biến đổi xã hội, NXB Khoa học xã hội, tr.54.

[5] Shajinina Hannah (2006)、『日本女性の社会地位に関する歴史的研究位』, 広島大学留学生センター (Nghiên cứu lịch sử về địa vị xã hội của phụ nữ Nhật Bản, ĐH.Hiroshima).


Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn