GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

VÀI NÉT VỀ DÂN SỐ NHẬT BẢN THỜI KỲ TRƯỚC THẬP NIÊN 1990 (Phần 2)

Đăng ngày: 10-02-2020, 08:42

Sự thay đổi phân bố dân số: Theo kết quả của cuộc Điều tra tình hình quốc gia lần thứ 1 vào năm 1920 ở Nhật Bản, dân số sống ở thành phố chiếm khoảng chưa đầy 20% tổng dân số Nhật Bản. Nhưng, trước Chiến tranh thế giới lần thứ hai, cùng với tốc độ công nghiệp hóa nhanh, tỉ lệ dân số đô thị cũng tăng lên, năm 1940 đã lên tới 40%. Sau khi nước Nhật bại trận, nền công nghiệp tại các thành phố đình đốn, nên tỉ lệ dân số thành thị giảm trong một thời gian. Sau đó, nền kinh tế Nhật Bản phục hồi, và cùng với sự phát triển cao độ của nền kinh tế, tốc độ đô thị hóa dân số không ngừng tăng. Năm 1955, tỉ lệ dân số đô thị đã lên tới trên 50%, và năm 1985 tỉ lệ này vào khoảng 80%. Tuy nhiên, thời kỳ này, do có sự hợp nhất giữa các trị trấn và thôn làng, nên có thể nói, khu vực đô thị không hẳn là toàn bộ các thành phố nhỏ, nhưng nếu điều tra dựa trên những chỉ tiêu nghiêm ngặt về dân cư đô thị, thì lúc này dân số đô thị Nhật Bản thực sự cũng chiếm tới trên 60% tổng dân cư Nhật Bản.

Cùng với sự đô thị hóa dân cư, dân số đô thị chủ yếu tập trung ở 3 thành phố lớn nhất của Nhật Bản là Tokyo, Osaka và Nagoya. Năm 1950, 1 thành phố, 2 phủ và 7 tỉnh thuộc khu vực Tokyo (bao gồm Saitama, Chiba, thủ đô Tokyo và tỉnh Kanagawa), khu vực Chukyo (bao gồm các tỉnh Gifu, Ai chi, Mie) và khu vực Hanshin (bao gồm Kyoto, Osaka và tỉnh Hyogo) có dân số chiếm tới 34% dân số Nhật Bản, năm 1985 con số này đã lên tới 47%. Những năm 1980-1990 dân số khu vực Chukyo và Hanshin không thay đổi, trong khi dân số Tokyo vẫn tiếp tục tăng, tính tới năm 1985, cứ 4 người Nhật lại có 1 người sống ở Tokyo.

Với sự tiến triển đô thị hóa dân số ở Nhật Bản, sự tập trung dân cư đông đúc tại 3 thành phố lớn mà đứng đầu là Tokyo là do dòng người di cư từ nông thôn ra thành thị. Đặc biệt, trong thời kỳ kinh tế phục hồi và tăng trưởng cao, dòng người di cư từ các thành phố nhỏ đến 3 thành phố lớn tăng cao. Trong những năm từ 1955 đến 1965, các khu vực có dân cư lưu động và di cư lớn nhất là Tohoku, Chukoku và Shikoku, Kyushu, dân số giảm nhanh tại các tỉnh lị và đảo này. Sau năm 1965, kinh tế tăng trưởng ở mức ổn định nên dòng người di cư cũng chững lại. sự sụt giảm dân số ở các vùng này được cải thiện. Tuy nhiên, những người trẻ sau đó vẫn tiếp tục đổ ra các thành phố lớn tìm kiếm cơ hội học tập và làm việc, nên tại các vùng nông thôn, tỉnh lị, dân số vẫn tiếp tục già hóa so với các thành phố lớn, tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên ở nông thôn cũng thấp dưới mức trung bình của toàn quốc.

Sự biến chuyển về cơ cấu gia đình ở Nhật Bản:

Gia đình là nhóm cơ bản nhất của xã hội. Luật dân sự cũ được ban hành bởi chính phủ Minh Trị vẫn mang đậm màu sắc võ gia kiểu samurai, theo chế độ phụ hệ. Người chủ gia đình có quyền uy và vai trò quyết định đối với mỗi thành viên, đặc biệt trong vấn đề hôn nhân và thừa kế gia sản (nguyên tắc là con trai trưởng được thừa kế toàn bộ gia sản). Dựa theo Luật Gia đình như vậy, phần lớn các đám cưới phải được sự đồng ý của những người thân trong gia đình và kết hôn theo phương thức mai mối, vợ theo chồng, trong các anh em trai thì anh trai trưởng có toàn quyền quyết định, điều khiển mọi việc trong nhà, con trai thứ ít có tiếng nói. Nhìn chung, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình thời kỳ này là quan hệ “chi phối - phụ thuộc”. Con trai trưởng sau khi kết hôn sẽ sống cùng bố mẹ, vì vậy, cô dâu sau khi kết hôn lập tức phải chuyển về nhà chồng ở. Việc của phụ nữ là sinh con trai nối dõi tông đường, và cho đến khi người chồng được hưởng thừa kế, họ có vị trí rất thấp kém trong gia đình. Những người con trai thứ sau khi kết hôn không sống cùng nhà với bố mẹ, mà được ra ở riêng, quan hệ giữa các anh em lúc này là quan hệ “bản gia – thứ gia” (nhà chính – nhà phụ). Phụ nữ sau khi kết hôn với người con trai thứ, thì thực chất cũng trở thành một thành viên trong đại gia đình.

Nhìn lại tình hình kinh tế lúc bấy giờ, vào năm Minh Trị thứ nhất (1868) dân số lao động trong nhóm ngành thứ nhất (tức là nông nghiệp) chiếm tới 80% dân số lao động trong cả nước. Sau đó, nền kinh tế phát triển, lao động trong các ngành thứ 2 và thứ 3 tăng lên, song đến năm Chiêu Hòa thứ 15 (1940) dân số lao động nông nghiệp vẫn chiếm tới trên 40%. Bên cạnh đó, ngay trong nhóm ngành thứ 2 và 3, công nghiệp nhẹ vẫn là ngành chủ đạo, và lao động trong các xí nghiệp nhỏ hoặc các công ty gia đình dần dần tăng lên. Vào năm 1940, lao động làm việc trong công ty gia đình mình và tự kinh doanh nhỏ vẫn chiếm tới 60%, trong khi lao động thuê mướn chỉ chiếm 40%. Ngoài ra, nhóm lao động “cổ trắng” (tức là nhóm làm các công việc quản lý, hành chính sự vụ, có chuyên môn và có kỹ thuật cao) lúc này chỉ chiếm vẻn vẹn chưa đầy 10%.

Xã hội Nhật Bản trước Chiến tranh thế giới thứ 2 là xã hội nông nghiệp đang dần chuyển mình sang xã hội công nghiệp - xã hội đô thị, nhưng cấu trúc và chức năng của gia đình thời kỳ này hầu như không có gì thay đổi so với thời phong kiến trước đó. Mặt khác, do ảnh hưởng của Luật dân sự cũ đã thấm đẫm trong xã hội Nhật Bản, có thể nói, thời kỳ này kiểu gia đình gia trưởng – phụ hệ vẫn còn tồn tại khá mạnh mẽ. Suốt trong những năm trước chiến tranh, tỉ lệ ly hôn tiếp tục duy trì ở mức rất nhỏ, chứng tỏ rằng địa vị phụ thuộc của người phụ nữ trong gia đình lúc bấy giờ vẫn còn rất lớn.

Gia đình Nhật Bản sau chiến tranh:

Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Luật Dân sự mới thay thế Luật dân sự cũ đã đem đến sự thay đổi lớn cho các gia đình Nhật Bản. Nếu như Luật Dân sự cũ lấy chế độ phụ hệ - gia trưởng làm trung tâm, thì Luật Dân sự mới mang đến những quy định về mô hình “gia đình vợ chồng” theo kiểu phương Tây, việc kết hôn chỉ cần được sự đồng ý của hai người, quyền thừa kế kiểu cũ cũng bị xóa bỏ, thay bằng quy định nếu người chồng mất đi thì vợ sẽ được thừa hưởng ½ tài sản, số còn lại chia đều cho các con. Sau khi Luật Dân sự mới được ban hành, những tập quán gia đình kiểu cũ không phải một sớm một chiều mà xóa bỏ ngay được, tuy nhiên quan niệm về chế độ “gia đình vợ chồng” từng bước thâm nhập vào đời sống xã hội và từng gia đình, cùng với sự thay đổi của nền kinh tế - xã hội sau chiến tranh.

Về vấn đề kết hôn, những cuộc hôn nhân mai mối cũng giảm dần, thay bằng hôn nhân dựa trên tình yêu. Đối với những cuộc hôn nhân dựa trên tình yêu, rất nhiều trường hợp đối tác hôn nhân là bạn bè cùng trường, là người do bạn giới thiệu hoặc tự làm quen với nhau trong các hoạt động câu lạc bộ và nơi vui chơi giải trí. Lúc này, cha mẹ hầu như không có quyền quyết định hoặc gây ảnh hưởng gì lớn đến việc kết hôn của con cái. Sự thay đổi của những quy định về việc kế thừa gia sản cũng đưa đến những thay đổi lớn, địa vị của người phụ nữ lúc này được nâng lên rõ rệt, cùng với đó, đặc quyền của con trai trưởng hoàn toàn bị xóa bỏ. Nhờ đó mà mối quan hệ giữa vợ chồng, bố mẹ và con cái, giữa các con với nhau đã được thiết lập lại trên nền tảng bình đẳng.

Sau Chiến tranh, con số các đôi vợ chồng sống chung với gia đình nhà chồng giảm mạnh, tỉ lệ chỉ còn khoảng 30% trong số các cặp vợ chồng nói chung, 40% các cặp vợ chồng con trai trưởng sống chung với bố mẹ. Tỉ lệ các cặp vợ chồng chung sống chung để phụng dưỡng bố mẹ già (trên 65 tuổi) cũng giảm mạnh, từ 80% sau chiến tranh chỉ còn khoảng 60% vào những năm 1980.

Về kinh tế, năm 1955, nền công nghiệp bị phá hủy sau chiến tranh đã nhanh chóng được khôi phục lại ngang bằng với giai đoạn trước thời chiến, kinh tế bước vào giai đoạn tăng trưởng thần kỳ và điều này có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu các ngành sản xuất trong nước Nhật. Lao động làm trong nhóm ngành nghề thứ nhất (nông, lâm, ngư nghiệp) giảm mạnh xuống chỉ còn khoảng 10% vào những năm 1980, lao động trong nhóm ngành nghề thứ 2 (công nghiệp nặng, công nghiệp hóa dầu...) tăng từ 20% lên 30%, sau đó tốc độ gia tăng chững lại, trong khi đó, nhóm ngành nghề thứ 3 (công nghiệp điện, khí, sản xuất hàng tiêu dùng... và dịch vụ) tăng lên đến 50% vào những năm 1970 và đạt gần 60% vào năm 1980.

Lao động nông nghiệp giảm thấp sau chiến tranh, công nghiệp nặng trở thành ngành mũi nhọn, con số các công xưởng, nhà máy tăng cao, thu hút nhân công, khiến cho lao động theo nghề cha truyền con nối trong gia đình và tự kinh doanh giảm hẳn, vào đầu những năm 1980, trong 4 người lao động tại các cơ sở gia đình thì có tới 3 nhân công được thuê mướn. Xem xét tình hình lao động trong tất cả các nhóm ngành nghề, có thể thấy, sau chiến tranh, tỉ lệ lao động trong nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp tiếp tục giảm mạnh, lao động trong các nhóm ngành nghề còn lại đều gia tăng. Tuy nhiên, sự gia tăng tỉ lệ lao động trong các ngành công nghiệp sản xuất và giao thông vận tải cho đến những năm đầu 1970 có sự chững lại, tỉ lệ lao động bán hàng và làm trong các ngành dịch vụ cũng không tăng lên kể từ những năm 1980, thay vào đó, lao động “cổ trắng” vẫn tiếp tục gia tăng.

Sự phi nông nghiệp hóa gia tăng nhanh chóng sau chiến tranh, kinh tế dịch vụ phát triển, cùng với đó là xu hướng đô thị hóa dân số, xã hội hóa lao động, lao động cổ trắng tăng lên... tất cả những điều này làm biến đổi sâu sắc hiện trạng gia đình ở Nhật Bản. Việc đi làm xa nhà đã đưa đến sự phân công lao động trong các cặp vợ chồng ở Nhật Bản diễn ra mạnh mẽ, chồng đi làm kiếm tiền, vợ ở nhà nội trợ đã trở thành mô hình phổ biến. Đặc biệt, lao động trong các nhóm ngành nghề thứ 2 và thứ 3 thường tập trung ở các thành phố lớn, nơi mà vấn đề nhà đất ngày càng trở nên khó khăn hơn, việc đi làm xa nhà đã trở thành phổ biến, bên cạnh đó, nhà ở chật hẹp khiến họ không thể sống chung trong gia đình nhiều thế hệ, những người làm công ăn lương có xu hướng lập gia đình và sống xa cách bố mẹ.

Ở nông thôn, sau chiến tranh, nông nghiệp suy thoái, nên số lao động làm nông cùng với gia đình cũng giảm mạnh, nhưng tỉ lệ lao động nữ đi làm các công việc khác cũng vẫn rất nhỏ. Tuy nhiên, vào những năm 1970, do nhu cầu lao động tăng cao, tỉ lệ phụ nữ đi làm cũng tăng lên mạnh mẽ, việc cân đối giữa công việc nơi công sở với nuôi con và làm việc nhà đã trở thành một vấn đề lớn trong xã hội lúc bấy giờ. Kết hôn, sinh con, ở nhà chăm con nhỏ và sau đó lại quay lại làm việc là mô hình được nhiều phụ nữa lựa chọn. Thời kỳ này cũng mở ra cho phụ nữ Nhật Bản khả năng lựa chọn lớn hơn giữa làm việc và kết hôn./.

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Tài liệu tham khảo:

1. 『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年 (Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988)

2. 『近代日本の地域社会』、今西一、日本経済評論社出版、2009年 (Imanishi Hajime (2009), Cộng đồng địa phương Nhật Bản hiện đại, NXB.Nihon keizai Hyoronsha)

3.『共同体の論理』松本健一、第三文明社、1978年 (Matsumoto Kenichi (1978), Lý thuyết về tính cộng đồng, NXB.Dai san Bunmei sha)

4.『家族と地域社会』川越淳二、1990年、名著出版 (Wakagoe Junji (1990), Gia đình và cộng đồng địa phương, NXB.Meicho)

5.『日・韓・中における社会意識の比較調査』佛教大学総合研究所紀要別冊、京都、2011年 (Điều tra so sánh đối chiếu về ý thức xã hội ở các quốc gia Nhật - Trung - Hàn, Viện Nghiên cứu tổng hợp, Đại học Phật giáo, Kyoto, 2001)

6.『家族と地域社会』川越淳二、名著出版、1990年 (Kawagoe Junji (1990), Gia đình và xã hội địa phương, NXB.Meicho, 1990)

7. 『家と共同体:日欧比較視点から』、岩本由輝、國方敬司、法政大学出版局、1997年 (Gia đình và cộng đồng: Từ quan điểm đối chiếu Nhật – Âu, Iwamoto Yoshiteru, Kunikata Keiji (đồng chủ biên), NXB Đại học Hosei, 1997)

8. 『家族の古代史:恋愛・結婚・子育て』梅村恵子、歴史文化ライブラリー227、2007年 (Umemura Keiko, Gia đình thời cổ đại: Yêu – Kết hôn và nuôi dạy con cái, NXB Thư viện văn hóa lịch sử, quyển số 227, năm 2007)

9. 『家族と人口の歴史社会学』斎藤修、リブロポート、1988年 (Saito Osamu, Xã hội học lịch sử về gia đình và dân số, NXB Libro, 1988)

10. 『人口減少社会、未来への責任と選択』厚生省大臣官房政策課編、ぎょうせい出版社、1998年 (Xã hội suy giảm dân số, trách nhiệm và sự lựa chọn tương lai, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1998)

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn