GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Đăng ngày: 27-03-2021, 23:53

1. Giảm dân số và quy mô dân số thu hẹp

Như chúng ta đã biết, Nhật Bản đạt được tốc độ tăng trưởng dân số cao nhất vào những năm 1970, sau đó, tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm mạnh và duy trì ở mức dưới 1%/năm (có lúc chỉ còn 0,3%/năm) trong suốt những thập niên 1980, 1990 và đầu 2000. Năm 2008, Nhật Bản đạt đỉnh dân số với 128.080.000 người, sau đó dân số liên tục giảm cho đến nay, và dự báo đến 2050, dân số Nhật Bản chỉ còn khoảng 86.740.000 người, đến năm 2100 còn chưa đầy 50 triệu người. Nhật Bản sẽ dần chuyển thành xã hội dân số thấp[1].

Biểu đồ 1: Biến động dân số Nhật Bản trong dài hạn (từ năm 1500 - năm 2100)[2]

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Theo tính toán của Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, từ năm 2010 đến 2060, Nhật Bản sẽ sụt giảm khoảng 1/3 dân số, tức là 41.320.000 người. Quy mô giảm này còn lớn hơn toàn bộ dân số vùng Tokyo, Kanagawa, Osaka và tỉnh Aichi cộng lại. Dự báo quy mô dân số Nhật Bản vào năm 2060 sẽ thu hẹp bằng quy mô dân số năm 1950, tức là khoảng 85 triệu người, nhưng nhìn vào cơ cấu dân số lại thấy có sự khác biệt lớn. Nếu như cơ cấu dân số năm 1950 là dân số trẻ em từ 0-14 tuổi và dân số trong độ tuổi lao động từ 15-64 tuổi chiếm tới 95% dân số, dân số người già trên 65 tuổi chỉ chiếm 5% dân số, thì dân số dự báo vào năm 2060 có cơ cấu là trẻ em 0-14 tuổi và người trong độ tuổi lao động 15-64 tuổi chỉ chiếm gần 60% dân số, còn lại là người già trên 65 tuổi, chiếm tới 39,9% dân số (trong đó, người già trên 75 tuổi chiếm 26,9% dân số), đưa đến một gánh nặng lớn cho xã hội Nhật Bản.

Biểu đồ 2: Biến động trong cơ cấu dân số Nhật Bản[3]

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Như vậy, tốc độ gia tăng dân số chậm ở Nhật Bản diễn ra vào những năm 1975, đặc biệt từ những năm 1990 đến hết thập niên 2000, và từ năm 2008 bắt đầu suy giảm do nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết phải kể đến nguyên nhân hàng đầu là do tỉ suất sinh thấp. Bảng sau thể hiện số trẻ em ra đời/tỉ suất sinh thô, số người chết/tỉ suất chết thô và tỉ suất sinh đặc thù (số con trung bình/vòng đời người phụ nữ) ở Nhật Bản từ năm 1990 đến 2019.

Bảng 1: Tỉ lệ sinh và tỉ lệ tử vong ở Nhật Bản từ năm 1990 đến năm 2019[4]

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Qua bảng thống kê trên, có thể thấy tỉ suất sinh thô ở Nhật Bản gần như liên tục giảm từ năm 1990 đến nay, còn tỉ suất sinh đặc thù cũng luôn ở mức rất thấp, dưới 1,5 con/vòng đời người phụ nữ.

Như đã phân tích ở chương 1, từ những năm 1960, xã hội Nhật Bản chuyển từ mô hình “sinh nhiều tử nhiều” sau chiến tranh, sang mô hình “sinh nhiều tử ít”, tỉ suất sinh đặc thù lúc này vào khoảng 2,1 con/vòng đời người phụ nữ. Nhưng vào những năm 1971 đến 1974, ở Nhật Bản xảy ra hiện tượng bùng nổ dân số lần thứ hai. Năm 1973, cú sốc dầu lửa lần thứ nhất đã ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế Nhật Bản, đưa đến suy nghĩ cần phải ổn định sự tăng trưởng dân số, không để dân số tăng quá nhanh, từ năm 1975, tỉ lệ sinh đặc thù chuyển hướng giảm thấp dưới 1,9 và duy trì trong suốt thập niên 1980. Nửa cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990 lại một lần nữa chứng kiến sự giảm thấp tỉ lệ sinh đặc thù xuống mức dưới 1,5, trong khi tỉ lệ sinh thay thế cần thiết lúc này phải là 2,08.

2. Toàn cầu hóa và vấn đề di dân

Từ những năm cuối thập niên 1990, đầu 2000, xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, và Nhật Bản cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Toàn cầu hóa phủ sóng mọi lĩnh vực của đời sống, bắt rễ vào xã hội Nhật Bản, vốn trước đó là một xã hội tương đối khép kín và bài trừ người nước ngoài. Nếu như vào những năm đầu 1990, ở Nhật Bản mới chỉ có khoảng 1 triệu người nước ngoài sinh sống, thì tới những năm cuối thập niên 2000, con số này đã tăng hơn gấp đôi, lên đến 2.087.261 người vào năm 2010, chiếm 1,63% dân số Nhật Bản[5]. Còn theo số liệu của Bộ Tư pháp Nhật Bản công bố vào tháng 6 năm 2018, ở Nhật Bản hiện có 2.637.251 người nước ngoài, chủ yếu đến từ các quốc gia như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Philippines, Brazil, Nepal, Đài Loan, Mỹ, Indonexia, Thái Lan và một số quốc gia khác...

Biểu đồ 3: Cơ cấu người nước ngoài tại Nhật Bản[6]

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Bảng 2: So sánh số người nước ngoài ở Nhật Bản theo quốc tịch và khu vực[7]

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Như vậy, có thể thấy rằng, cùng với toàn cầu hóa, dòng người nước ngoài đến Nhật Bản sinh sống và làm việc đã không ngừng tăng lên trong 3 thập kỷ qua, so với năm 1990, thì con số người nước ngoài tại Nhật Bản đã tăng gấp 2,5 lần, đặc biệt là du học sinh, thực tập sinh và người lao động. Ở chiều ngược lại, số người Nhật Bản ra nước ngoài sinh sống, học tập và làm việc cũng lên đến 1.351.970 người vào năm 2017, tăng gấp 2,3 lần so với năm 1989 (586.972 người) và là mức tăng cao nhất kể từ khi Bộ Ngoại giao Nhật Bản thực hiện thống kê từ năm 1968[8]. Trong số những người Nhật ở nước ngoài, có 867.820 người sinh sống trong thời gian dài hạn từ 3 tháng trở lên, chiếm 64%, ngoài ra, 484.150 người có quyền cư trú vĩnh viễn.

3. Sự biến đổi gia đình

3.1. Hộ đơn thân (hộ 1 người) phát triển mạnh, quan niệm không cần hôn nhân, không sinh con

Những biến đổi của gia đình Nhật Bản đã âm thầm diễn tiến từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến những thập niên 1970-1980, và càng trở nên sâu sắc trong thập niên 1990. Từ mô hình gia đình trực hệ, “tam đại đồng đường” - chung sống nhiều thế hệ, với nền tảng là chế độ “Ie” (nhà), quyền lợi tập trung vào người con trai trưởng và người này cũng có trách nhiệm chăm sóc bố mẹ lúc về già, gia đình Nhật Bản sau chiến tranh đã chuyển sang mô hình “gia đình hạt nhân”, chỉ có bố mẹ và con, con cái sau khi lập gia đình không cùng chung sống với bố mẹ.

Nền kinh tế phát triển nhanh chóng vào những năm 1960-1970, đời sống được nâng cao, người Nhật Bản bắt đầu ưu tiên những lợi ích cá nhân hơn là trách nhiệm đối với gia đình và cộng đồng. Sự ưu tiên tự do cá nhân, bình đẳng giới, phụ nữ học lên cao và đi làm, quan niệm về hôn nhân và sinh con thay đổi, tình trạng kết hôn muộn hoặc không kết hôn, không sinh con... đã đưa đến sự biến chuyển sâu sắc trong các gia đình ở Nhật Bản. Nếu như ngay sau chiến tranh, quy mô gia đình Nhật Bản vẫn lớn với trung bình là 4,5 người/hộ gia đình, thì từ thập niên 1990 quy mô gia đình thu hẹp, gia đình đơn thân tăng lên, số người trung bình trong một hộ gia đình chỉ còn xấp xỉ 2,5 người/hộ gia đình, hộ gia đình đơn thân - gia đình một người chiếm tỉ lệ cao. Theo kết quả điều tra về gia đình và giới, tỉ lệ của tuýp người theo chủ nghĩa “cá nhân hóa gia đình” vào năm 2008 là 24%, như vậy, cứ 4 người Nhật thì lại có 1 người thuộc tuýp này[9].

Biểu đồ sau thể hiện sự thay đổi của cơ cấu hộ gia đình ở Nhật Bản từ năm 1980 đến năm 2020 và dự báo đến năm 2050. Qua các con số thống kê, chúng ta có thể thấy, vào năm 2020 số hộ đơn thân (1.733 hộ) đã cao hơn số hộ gia đình có cả vợ chồng và con (1.239 hộ), và xu hướng sống độc thân này tiếp tục diễn tiến mạnh mẽ, tới năm 2050, số hộ một người (1.786 hộ) cao hơn gấp đôi so với gia đình có đầy đủ vợ, chồng và con (745 hộ).

Biểu đồ 4: Sự thay đổi cơ cấu các hộ gia đình ở Nhật Bản[10]

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Ở Nhật Bản, quan niệm về hôn nhân, gia đình cũng có nhiều thay đổi. Từ nửa sau thập niên 1970 bắt đầu xuất hiện tình trạng không kết hôn, kết hôn muộn ở phụ nữ trong độ tuổi 20, và đến thập niên 1980 thì ngay cả những phụ nữ trên 30 tuổi cũng không muốn lấy chồng, hoặc lấy chồng muộn. Người ta đổ lỗi cho việc bình đẳng giới và giáo dục bậc cao phổ cập ở phụ nữ, bên cạnh một thực tế là cả hai giới nam và nữ đều ưu tiên lợi ích cá nhân và mong muốn tự do, muốn được hưởng thụ trong một xã hội kinh tế phát triển vượt bậc. Nền kinh tế phát triển bùng nổ quá nhanh, nhận thức xã hội còn chưa theo kịp, rất nhiều giá trị truyền thống bị phá vỡ, trong đó có các giá trị quan về gia đình, về trách nhiệm của cá nhân đối với gia đình và xã hội.

Theo kết quả của cuộc điều tra “Ý thức người Nhật Bản” được Viện Nghiên cứu truyền thông NHK tiến hành 5 năm một lần, từ năm 1993, ý thức kết hôn của người Nhật Bản giảm thấp. Từ năm 1993, số người cho rằng “không cần hôn nhân” đã cao hơn số người “mong muốn kết hôn”. Ở nữ giới, nữ thanh niên theo quan niệm “không hôn nhân” nhiều hơn thế hệ trước họ, cho thấy khuynh hướng không kết hôn ngày càng trở nên rõ nét ở thế hệ trẻ. Theo kết quả điều tra năm 2008, ở nữ giới, tỉ lệ nữ thanh niên cho rằng “không cần hôn nhân” nhiều hơn tỉ lệ này ở phụ nữ trên 30 tuổi, chiếm tới hơn 80%, đặc biệt, tỉ lệ này ở nữ thanh niên 20 tuổi lên đến gần 90%. Tỉ lệ nam thanh niên “không cần hôn nhân” cũng cao, nhưng so với nữ giới, vẫn ở mức dưới 80%.

Bảng 3: Quan niệm “không hôn nhân” của nam, nữ Nhật Bản[11]

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Chú thích: Bảng trên biểu thị kết quả điều tra về sự khác biệt ở nam và nữ, ở người chưa kết hôn và đã kết hôn trong quan niệm cho rằng “không cần hôn nhân”.

Một kết quả điều tra khác cho thấy, có mối quan hệ giữa việc “có bằng cấp cao” và “không lấy chồng” ở nữ giới Nhật Bản. Từ những năm 1990, tỉ lệ “không kết hôn” ở cả hai giới đều gia tăng, nhưng tỉ lệ nữ giới có “bằng cấp cao” (trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học) không lấy chồng nhiều hơn ở người “tốt nghiệp phổ thông trung học”. Ở nữ giới có bằng cấp cao, nếu như tỉ lệ không kết hôn vào thời điểm điều tra năm 1993 chỉ là 14% thì đến năm 2008 đã tăng lên đến 58%, cho thấy càng học cao, phụ nữ càng ít nghĩ đến chuyện lấy chồng[12].

Về lý do chưa hoặc không kết hôn, có 37% nghĩ rằng “do mình còn trẻ”, 15% nghĩ rằng “do không cảm thấy sự cần thiết hoặc ý nghĩa của hôn nhân”, 20% cho rằng “vì muốn dồn sức cho công việc hoặc việc  học tập”, 15% nghĩ rằng “vì muốn làm những điều mình thích trước đã”, 15% “không muốn đánh mất tự do và lạc thú của bản thân”, 31% “chưa gặp được đối tượng thích hợp”, 12% “không có cơ hội gặp người khác giới”, 17% “do không có tiền”. Điều này cho thấy, không phải tất cả những suy nghĩ trên đều phủ định hôn nhân. Tuy nhiên, các quan niệm  xã hội trong quá khứ về hôn nhân đã mất dần, và vai trò quyết định tuyệt đối của mỗi cá nhân trong việc lựa chọn giữa “kết hôn” hay “không kết hôn” đã tăng lên.

Về vấn đề kết hôn muộn ở Nhật Bản, một cuộc điều tra của Văn phòng Nội các Nhật Bản về độ tuổi kết hôn lần đầu ở nam, nữ năm 2015 cho thấy, nam giới trong độ tuổi từ 30-34 tuổi có tới 47,1% chưa kết hôn, trong khi tỉ lệ này ở nữ giới là 23,9%, có nghĩa là mặc dù đã ngoài 30 tuổi, nhưng có tới ½ nam giới và 1/3 nữ giới ở Nhật Bản chưa kết hôn. Xem xét tình trạng này ở độ tuổi từ 35-39 tuổi, có thể thấy 35,0% nam giới chưa kết hôn (1/3), và 23,9% nữ giới chưa kết hôn (1/4)[13].

Biểu đồ 5: Sự biến đổi về tỉ lệ chưa kết hôn ở nam nữ Nhật Bản từ 1960 đến 2015[14]

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Biểu đồ trên thể hiện sự biến đổi về tỉ lệ chưa kết hôn ở nam, nữ Nhật Bản với chiều hướng gia tăng liên tục từ năm 1960 đến 2015, đặc biệt, tỉ lệ chưa kết hôn tăng cao từ giữa thập niên 1980 đến năm 2010, cho thấy tình trạng kết hôn muộn ngày càng trầm trọng ở Nhật Bản.

Một nguyên nhân khác dẫn đến thực trạng “xã hội ít trẻ em ở Nhật Bản”, ngoài các nguyên nhân do kết hôn muộn hoặc không kết hôn, còn có nguyên nhân nằm ở sự thay đổi trong quan niệm về vấn đề “sinh con” của người Nhật Bản. Trật tự truyền thống “hôn nhân - tình dục - có con” bị phá vỡ, số người theo chủ nghĩa “không sinh con” đã gia tăng liên tục từ những năm 1970 đến nay. Theo “Thống kê tình hình dân số” của Bộ Y tế và Lao động Nhật Bản, vào năm 1973, khi cuộc bùng nổ dân số Nhật Bản lần thứ hai đang ở đỉnh cao, có 2.090.000 trẻ em ra đời mỗi năm. Nhưng đến năm 2003, con số này chỉ còn là 1.120.000 trẻ/năm, đến năm 2008, tiếp tục giảm sút, còn 1.090.000 trẻ/năm, chỉ bằng ½ so với thời điểm năm 1973, còn năm 2018, chỉ còn 864.000 trẻ em ra đời mỗi năm.

Vấn đề đáng ngại nhất là ý thức “không sinh con” ngày càng trở nên phổ biến ở Nhật Bản. Vào những năm đầu 1990, tỉ lệ cho rằng “cần có con” đã ở mức khá thấp - là 54%, đến năm 1998 giảm xuống còn 48%, và từ năm 2003, số người theo khuynh hướng “không cần có con” đã vượt trên số người cho rằng “cần có con”.

Biểu đồ 6: Quan niệm về vấn đề sinh con[15]

SỰ BIẾN ĐỔI DÂN SỐ VÀ GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN  TỪ 1990 ĐẾN NAY (Phần 1)

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

[1] Sách trắng Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, tr.4.

[2] Trang web Văn phòng Nội các Nhật Bản:

https://www5.cao.go.jp/keizai-shimon/kaigi/special/future/sentaku/s3_1_2.html

[3] Sách trắng Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, tr.6.

[4] Bảng do người viết tổng hợp từ nguồn: https://www.mhlw.go.jp/toukei/saikin/hw/jinkou/suikei19/dl/2019suikei.pdf

[5] Năm 1990, có 1.075.317 người nước ngoài sinh sống tại Nhật Bản theo các hình thức visa khác nhau, chiếm 0,87% dân số Nhật Bản. Nguồn: Website Bộ Tư pháp Nhật Bản, truy cập ngày 11/09/2020:

http://www.moj.go.jp/content/000115700.pdf

[6], [7] Nguồn: Website Bộ Tư pháp Nhật Bản, truy cập ngày 11/09/2020: http://www.moj.go.jp/content/001269620.pdf

[8] Nguồn: Website Bộ Ngoại giao Nhật Bản: https://www.mofa.go.jp/mofaj/toko/page22_003338.html truy cập ngày 12/09/2020.

[9] Ngô Hương Lan, Đề tài NCKH cấp cơ sở năm 2010.

[10] Nguồn: Thống kê dự báo của Bộ Nội vụ, 2019. Website Bộ Nội vụ Nhật Bản, truy cập ngày 12/09/2020, https://www.soumu.go.jp/main_content/000273900.pdf

[11] Nguồn: “Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại”, tr.24.

[12] Nguồn: “Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại”, tr.36.

[13] Sách trắng về ứng phó với xã hội già hóa, Văn phòng Nội các Nhật Bản, năm 2018.

[14] Điều tra về thực trạng hôn nhân của người Nhật Bản hiện nay: https://www.nippon.com/ja/features/c05601/

[15] Ngô Hương Lan, Đề tài NCKH cấp cơ sở Văn hóa – xã hội Nhật Bản: Những vấn đề nổi bật, xu hướng chủ yếu trong 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến 2020, năm 2010, tr.11.

Tài liệu tham khảo

1. 『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年 (Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988)

2. 『近代日本の地域社会』、今西一、日本経済評論社出版、2009年 (Imanishi Hajime (2009), Cộng đồng địa phương Nhật Bản hiện đại, NXB.Nihon keizai Hyoronsha)

3.『共同体の論理』松本健一、第三文明社、1978年 (Matsumoto Kenichi (1978), Lý thuyết về tính cộng đồng, NXB.Dai san Bunmei sha)

4.『家族と地域社会』川越淳二、1990年、名著出版 (Kawagoe Junji (1990), Gia đình và cộng đồng địa phương, NXB.Meicho)

5.『日・韓・中における社会意識の比較調査』佛教大学総合研究所紀要別冊、京都、2011年 (Điều tra so sánh đối chiếu về ý thức xã hội ở các quốc gia Nhật - Trung - Hàn, Viện Nghiên cứu tổng hợp, Đại học Phật giáo, Kyoto, 2001)

6.『家族と地域社会』川越淳二、名著出版、1990年 (Kawagoe Junji (1990), Gia đình và xã hội địa phương, NXB.Meicho, 1990)

7. 『家と共同体:日欧比較視点から』、岩本由輝、國方敬司、法政大学出版局、1997年 (Gia đình và cộng đồng: Từ quan điểm đối chiếu Nhật – Âu, Iwamoto Yoshiteru, Kunikata Keiji (đồng chủ biên), NXB Đại học Hosei, 1997)

8. 『家族の古代史:恋愛・結婚・子育て』梅村恵子、歴史文化ライブラリー227、2007年 (Umemura Keiko, Gia đình thời cổ đại: Yêu – Kết hôn và nuôi dạy con cái, NXB Thư viện văn hóa lịch sử, quyển số 227, năm 2007)

9. 『家族と人口の歴史社会学』斎藤修、リブロポート、1988年 (Saito Osamu, Xã hội học lịch sử về gia đình và dân số, NXB Libro, 1988)

10. 『人口減少社会、未来への責任と選択』厚生省大臣官房政策課編、ぎょうせい出版社、1998年 (Xã hội suy giảm dân số, trách nhiệm và sự lựa chọn tương lai, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1998)

11. 日本内閣府ホームページ:(Website Văn phòng Nội các Nhật Bản)

http://warp.da.ndl.go.jp/info:ndljp/pid/10361265/www5.cao.go.jp/seikatsu/senkoudo/h23/23senkou_02.pdf

12.日本総務所統計局のホームページ:(Cục Thống kê, Bộ Nội vụ Nhật Bản)

https://www.nippon.com/ja/currents/d00336/

13.  厚生労働白書、平成30年版 (Sách trắng Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, năm 2018)

14. 『平成30年国民生活基礎調査(平成28年)の結果からグラフでみる世帯の状況』、厚生労働省政策統括官(統計・情報政策担当)(Tình hình các hộ gia đình ở Nhật Bản qua biểu đồ - Từ kết quả Điều tra cơ bản đời sống nhân dân (2016), Cục trưởng Cục Tổng quát Chính sách, Bộ Y tế và Lao Động, 2018)

15. 『令和元年(2019)人口動態統計の年間推計』政府統計、厚生労働省のホームページ掲載 (Thống kê hàng năm về động thái dân số Nhật Bản, Số liệu thống kê của chính phủ, đăng trên trang web Bộ Y tế Lao động Nhật Bản, 2019)

https://www.mhlw.go.jp/toukei/saikin/hw/jinkou/suikei19/index.html




 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn