GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

PHỤ NỮ THAM CHÍNH Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY

Đăng ngày: 28-05-2021, 09:02

Tham chính hay nói đầy đủ là tham gia chính trị bao gồm quyền bỏ phiếu, quyền ứng cử, quyền xây dựng và thực hiện các chính sách, tham gia vào bộ máy công quyền, các tổ chức xã hội và hiệp hội trong đời sống chính trị và cộng đồng của một quốc gia. Mặc dù số lượng không nhiều, song hiện nay phụ nữ Nhật Bản đã có mặt ở tất cả các lĩnh vực, các hoạt động chính trị của quốc gia, địa vị chính trị của phụ nữ được nâng cao hơn rất nhiều so với thời kỳ trước. Tuy nhiên, do những quan niệm có thiên hướng bất bình đẳng giới về lĩnh vực chính trị khiến vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực này ở Nhật Bản mờ nhạt hẳn so với nam giới.

1. Phụ nữ tham gia Quốc hội và chính quyền Trung ương

Sau khi được công nhận quyền bầu cử và ứng cử bình đẳng như nam giới, từ cuộc tổng tuyển cử lần thứ 22 (năm 1946), chưa lúc nào Quốc hội Nhật Bản vắng bóng các nghị sĩ nữ. Phụ nữ Nhật luôn duy trì và nâng cao vai trò tham gia chính trị Nhật Bản nói chung và Quốc hội Nhật Bản nói riêng thể hiện qua cả phương diện số lượng nữ nghị sĩ và các hoạt động tích cực của họ trên nghị trường. Không ít người trong số họ đã trở thành các thành viên Nội các, nắm giữ vị trí quan trọng trong bộ máy chính trị Nhật Bản như vị trí Bộ trưởng, để qua đó có những đóng góp tích cực trong việc nâng cao tiếng nói và vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực này.

Tới năm 2005, tỷ lệ nữ nghị sĩ Nhật Bản đã tăng cao vượt mức năm 1946, đạt 8,9%, đặc biệt là vào năm 2009 đạt kỷ lục với 11,3% (54 người). Năm 2014, trong 475 thành viên Hạ nghị viện Quốc hội Nhật Bản có 45 nữ nghị sĩ, đạt 9,5%. Ở Thượng nghị viện, tỷ lệ nữ có sự gia tăng mạnh mẽ và có xu hướng ổn định hơn ở Hạ nghị viện. Nếu như năm 1947 – năm đầu tiên bầu cử Thượng nghị viện được tiến hành sau chiến tranh, chỉ có 10 phụ nữ Nhật trở thành Thượng nghị sĩ, chiếm 4,5%; thì tới năm 2013 đã có 39 phụ nữ góp mặt trong Thượng nghị viện, chiếm 16,1%, tăng lên 3,6 lần. Trong cuộc bầu cử Hạ nghị viện năm 2017, 47 thành viên nữ đã được bầu vào Quốc hội, đây là mức cao nhất sau tỷ lệ kỷ lục 11,3% vào năm 2009 [1].

Cùng với đó, trong những năm qua, tỷ lệ phụ nữ Nhật tham gia Nội các đang tăng lên. Thời điểm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, với Nội các của thủ tưởng Ikeda (19/7/1960-11/9/1964), Nhật Bản chỉ có 2 nữ Bộ trưởng, tới năm 2000 với Nội các của thủ tướng Mori (4/7-5/12/2000) Nhật Bản có tới 8 nữ Bộ trưởng. Từ năm 2001 tới năm 2006 dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Koizumi, Nhật Bản có tới 14 nữ Bộ trưởng được bổ nhiệm. Thủ tướng Shinzo Abe cũng được coi là người rất chú trọng đến việc nâng cao tỷ lệ nữ tham gia trong Nội các. Ở nhiệm kỳ đầu ông Abe làm thủ tướng (2006 - 2007) có 9 nữ Bộ trưởng đã được bổ nhiệm. Ở nhiệm kỳ tiếp theo của Thủ tướng Shinzo Abe, đã có tổng cộng 7 nữ Bộ trưởng được bổ nhiệm. Chính Thủ tướng Abe là người đã đưa ra quyết tâm nâng tỷ lệ nữ trong Quốc hội Nhật Bản lên 30% vào năm 2020 và ông cũng là người tiên phong trong việc thực hiện mục tiêu này thông qua các nỗ lực duy trì số lượng nhất định các nữ Bộ trưởng trong Nội các. Trong số 19 bộ trưởng đương nhiệm của Nhật Bản, có 2 người là nữ, đó là Bộ trưởng Nội vụ Seiko Noda và Bộ trưởng Tư pháp Yoko Kamikawa. Bà Seiko Noda đã mở một ngôi trường chính trị dành riêng cho phụ nữ với hy vọng tạo ra một thế hệ nữ lãnh đạo mới cho đất nước Nhật Bản.

Tuy phụ nữ Nhật Bản đã có được một số thành tựu quan trọng trong phong trào đấu tranh giành quyền tham chính song hiện nay, Nhật Bản vẫn là quốc gia mà sự tham gia của phụ nữ vào chính trị bị coi là mờ nhạt. Điều này không chỉ đúng khi so sánh với các nước cùng trình độ phát triển, mà so với các nước đang phát triển ở Châu Á hay Châu Phi, sự góp mặt trong lĩnh vực chính trị của phụ nữ Nhật cũng vẫn chưa được đánh giá cao. Theo tài liệu thống kế của Tổ chức Liên minh nghị viện thế giới (IPU), đến tháng 1 năm 2019, tỷ lệ nữ trong Hạ nghị viện của Nhật Bản đứng thứ 165 trong 193 Quốc gia với tỷ lệ 10,2% (mức trung bình của thế giới là 24,3%); tỷ lệ nữ trong Thượng nghị viện Nhật Bản là 20,7% (mức trung bình của thế giới là 24,1%) [2].

Theo biểu đồ 1 về sự thay đổi tỷ lệ nữ trong Hạ nghị viện ở một số quốc gia, có thể thấy so với các quốc gia khác tỷ lệ nghị sĩ nữ Nhật Bản chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp. Tính đến tháng 1 năm 2020, tỷ lệ nữ trong Hạ nghị viện Nhật Bản chỉ là 9,9% (tỷ lệ nữ trong Thượng nghị viện là 22,9%). Đây là tỷ lệ rất thấp nếu so sánh với các quốc gia khác như Mexico (48,2%), Pháp (39,5%), Anh (33,8%). Không chỉ so với các nước phát triển như Mỹ, Thụy Điển... mà ngay cả khi so sánh với các quốc gia ở khu vực Châu Á khác thì tỷ lệ này của Nhật cũng ở mức thấp. Hàn Quốc là quốc gia mà sự tham gia chính trị của phụ nữ cũng bị đánh giá là mờ nhạt, song tỷ lệ nữ nghị sĩ là 17,3%, vẫn cao hơn nhiều so với Nhật Bản (Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Sự thay đổi tỷ lệ thành viên nữ trong Hạ nghị viện ở một số quốc gia

PHỤ NỮ THAM CHÍNH Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY

Nguồn: Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) (1/2020)

Tỷ lệ nữ nghị sĩ trong Quốc hội Nhật nhìn từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay tăng rất chậm, thậm chí nếu so sánh với thời điểm cuộc tổng tuyển cử năm 1946, thì tỷ lệ nữ nghị sĩ trong Hạ nghị viện thời điểm năm 2012 còn thấp hơn 0,5% (Năm 1946 Nhật Bản có 30 nữ nghị sĩ, chiếm 8,4%, năm 2012 chỉ còn 38 người, đạt tỷ lệ 7,9%). Sau cuộc tổng tuyển cử lần thứ 22 tổ chức vào năm 1946, tỷ lệ nữ nghị sĩ trong Hạ nghị viện nhiều năm không những không tăng mà còn giảm đi. Từ năm 1947 tới năm 1993, tỷ lệ nữ nghị sĩ trong Hạ nghị viện luôn giữ ở mức thấp, chỉ từ khoảng 1,2% đến 3,2%. Từ năm 1996, tỷ lệ nữ nghị sĩ trong Quốc hội Nhật Bản tăng lên và đạt mục kỷ lục vào năm 2009 (11,3%), tuy nhiên sau đó tỷ lệ này không ổn định, hiện nay tỷ lệ nữ trong Hạ nghị viện chỉ còn 9,9% [3].

Theo bảng xếp hạng của IPU, tỷ lệ nữ nghị sĩ của Nhật đang ngày càng có xu hướng xuống vị trí thấp dần khi so sánh với các quốc gia khác. Nếu vị trí của Nhật Bản vào năm 1997 là 83, năm 2000 là 98 thì năm 2012 tụt xuống thứ 143, năm 2019 là 165. Năm 1970 tỷ lệ nữ trong Quốc hội Thụy Điển cũng ở tương đối thấp, chỉ đạt 14%. Tuy nhiên, trong vòng khoảng 40 năm (từ 1970 tới 2010) trong khi tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội của Thụy Điển đã tăng thêm khoảng hơn 30% để đạt tới 45,0% thì tỷ lệ này của Nhật Bản vẫn chỉ là 10%. Phải chăng sự tụt hạng đó là do những nỗ lực nhằm tăng tỷ lệ nữ của Nhật Bản vẫn còn “tụt hậu” so với các nước khác.

So với các quốc gia khác trên thế giới, tỷ lệ phụ nữ Nhật tham gia vào Nội các cũng rất thấp. Theo báo cáo của Cục bình đẳng giới, tỷ lệ nữ với tư cách là các Ủy viên tham gia các phiên thẩm nghị của Nội các Nhật Bản tăng liên tục và khá nhanh từ năm 1975 đến năm 2010. Nếu năm 1975 tỷ lệ này chỉ đạt 2,4%, thì tới năm 2010 đã tăng thêm 31,4% và đạt 33,8%. Tuy nhiên, tới năm 2012 tỷ lệ này là 32,9% và sụt giảm 2 năm liên tiếp, thấp hơn 0,9% so với thời điểm cao nhất là vào năm 2010 với 33,8%. Sự sụt giảm này báo động tình trạng không ổn định và nguy cơ thất bại trong các chương trình chính sách về bình đẳng giới, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị đang được thực thi tại Nhật Bản.

Tỷ lệ nữ trong các ngành lập pháp cũng tăng không đáng kể: Số nữ Thẩm phán năm 1998 là 10,2%, năm 2003 là 12,6%; Công tố viên năm 1998 chiếm 5,2%, đến năm 2003 là 8,4%, số nữ Luật sư năm 1998 là 7,9%, năm 2003 là 11,7%. Số lượng học viên cao học trong các trường Luật ở Nhật Bản đang chiếm khoảng 30%[6]. Điều này được cho là tín hiệu về sự gia tăng số lượng các nữ luật sư và tỷ lệ phụ nữ tham gia lĩnh vực tư pháp, tòa án. Mặc dù vậy, con số trên cũng thể hiện quan niệm phân biệt giới trong việc lựa chọn ngành học ở Nhật Bản.

Từ các số liệu thông kê trên, có thể thấy tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội và các tổ chức chính trị của Nhật nhìn chung có khuynh hướng tăng lên, song tăng chậm, không ổn định và vẫn đang giữ ở mức thấp. Chỉ số khoảng cách giới (GGI) là chỉ số thể hiện khoảng cách giới trong tiến bộ xã hội ở mỗi quốc gia, được Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố hàng năm, dựa trên mức độ tham gia các hoạt động kinh tế và chính trị, trình độ học vấn, tỷ lệ sinh, tuổi thọ, sức khỏe…Năm 2018, GGI của Nhật Bản chỉ đứng thứ 110 trong số 149 quốc gia và thấp nhất trong các quốc gia thuộc nhóm G7. Trong 4 lĩnh vực bao gồm kinh tế, chính trị, giáo dục và sức khỏe, tỷ lệ phụ nữ Nhật Bản tham gia các lĩnh vực kinh tế và thu nhập của phụ nữ chỉ đứng vị trí thứ 117 trong số 149 quốc gia. Lĩnh vực chính trị thể hiện tiêu biểu qua tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội thậm chí còn khiêm tốn hơn rất nhiều, phụ nữ Nhật Bản chỉ đứng thứ 125 trong số 149 quốc gia.

2. Phụ nữ tham gia chính quyền địa phương

Biểu đồ 2 cho thấy những thay đổi về tỷ lệ nữ được bầu trong các cuộc bầu cử ở địa phương. Tại cuộc bầu cử địa phương trên toàn quốc diễn ra vào năm 2015, tỷ lệ nữ được bầu vào Hội đồng địa phương cấp tỉnh là 9,1%; Hội đồng địa phương cấp thành phố là 15%. Trong đó có 10% tỷ lệ nữ được bầu vào vị trí tỉnh trưởng và 1,8% cho vị trí thị trưởng. So sánh với năm 1947, khi cuộc bầu cử Hội đồng địa phương lần đầu tiên được tổ chức sau Chiến tranh, tỷ lệ nữ trong Hội đồng cấp tỉnh là 0,9% đã tăng đến 10 lần; trong Hội đồng thành phố là 0,4% đã tăng đến 37 lần và có một thống đốc. Thậm chí thời điểm năm 1947 còn không có tỉnh trưởng hay thị trưởng là nữ.

Biểu đồ 2: Sự thay đổi tỷ lệ nữ trong các cuộc bầu cử địa phương

PHỤ NỮ THAM CHÍNH Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY

Nguồn: Ryohei Takahashi, Trung tâm Giáo dục Chính trị Nhật Bản

Nhìn nhận trong cả một khoảng thời gian dài, tỷ lệ nữ chính trị gia tại các địa phương ở Nhật Bản đã tăng đều đặn kể từ những năm 1980 và tăng nhanh kể từ năm 2000. Tỷ lệ này đã tăng gấp tám lần trong hơn 30 năm, từ 1983 đến 2015, khi số lượng nữ trong các Hội đồng cấp tỉnh và thành phố bắt đầu tăng lên. Trong cuộc bầu cử địa phương tháng 4/2019 được tổ chức trên toàn quốc, 6 phụ nữ trong số 59 người đã giành chiến thắng để trở thành thị trưởng.

Tỷ lệ nữ là các ủy viên góp mặt trong những Ban tư vấn của các tổ chức đoàn thể ở địa phương (地方公共団体の審議会) cũng đang tăng lên, năm 2012 tỷ lệ này ở cấp tỉnh là 34,7%, thành phố là 33.0%, cấp quận và cấp phường xã lần lượt là 27,6% và 23,3% [4].

Tỷ lệ nữ tham gia vào bộ máy chính quyền địa phương các cấp ở Nhật Bản đã tăng lên đáng kể qua các năm, song vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa bắt kịp mục tiêu xây dựng xã hội bình đẳng giới. Ở các địa phương tại Nhật Bản mặc dù phụ nữ chiếm một nửa dân số, song tỷ lệ phụ nữ tham gia chính quyền rất thấp, có rất ít phụ nữ là tỉnh trưởng hoặc chủ tịch thành phố. Tính đến tháng 1 năm 2020, tỷ lệ trung bình của phụ nữ tham gia các Hội đồng cấp tỉnh trên toàn quốc chỉ chiếm 10,0%. Tính đến ngày 1/4/2019, chỉ có 2 trong số 47 tỉnh ở Nhật Bản có tỉnh trưởng là nữ, chiếm 4,3%; chỉ có 32 trong số 1721 thành phố có thị trưởng là nữ, chiếm 1,9%.

Theo bảng phân bố tỷ lệ thành viên nữ trong Hội đồng địa phương tính đến tháng 12 năm 2018, tỷ lệ thành viên nữ trong Hội đồng cấp tỉnh, cấp thành phố và cấp thị trấn lần lượt là 10%, 15,3% và 10,1%, con số này thậm chí còn thấp hơn cả tỷ lệ nữ trong Quốc hội.

Bảng 1: Phân bổ tỷ lệ thành viên nữ trong Hội đồng địa phương

PHỤ NỮ THAM CHÍNH Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY

Nguồn: Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản (31/12/2018)

Theo “Báo cáo điều tra tình trạng công việc của cán bộ công chức” do Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản tiến hành, năm 1991 tỷ lệ nữ trong bộ máy hành chính Nhật Bản là 15,3%, năm 2001 tăng lên 1,8% đạt mức 17,1%, nhưng  năm 2018 giảm chỉ còn 10%. Càng ở các chức vụ quản lý cao, tỷ lệ nữ càng thấp. Cũng theo Báo cáo trên, năm 1986 tỷ lệ nữ nắm các vị trí quản lý trong bộ máy hành chính của nước Nhật chỉ ở mức 0,6%, sau một phần tư thế kỷ, tới năm 2011, tỷ lệ này chỉ tăng thêm 2%, đạt 2,6%.

Tỷ lệ nữ góp mặt trong các Ban tư vấn của các lĩnh vực, cả ở trung ương và địa phương để bàn định các đường lối chính sách ở Nhật Bản cũng ở mức thấp và giảm liên tiếp trong nhiều năm gần đây. Năm 2012 tỷ lệ này ở nữ chỉ đạt 25,8%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nữ đảm nhiệm các vị trí “Ủy viên chuyên trách” chỉ đạt 19%.

Tỷ lệ nữ trong Hội đồng địa phương các cấp cũng có sự khác biệt giữa phụ nữ ở thành thị so với phụ nữ ở nông thôn và giữa các tỉnh, thành phố với nhau. Theo số liệu từ cuộc bầu cử Hội đồng địa phương được tiến hành trên toàn quốc vào năm 2015, tỷ lệ thành viên nữ trúng cử vào các Hội đồng cấp thành phố đứng đầu là thủ đô Tokyo với tỷ lệ 28,3%, tiếp theo là 21,5% ở Chiba và 21,0% ở Saitama. Trong khi tỉnh Kagosima, phụ nữ chiếm gần 1/3 trong các tổ chức tự quản địa phương thì tỷ lệ trúng cử chỉ có 4,5%. Ở Hội đồng cấp tỉnh, tỉnh Kyoto đứng đầu với 20% tỷ lệ nữ trúng cử, tiếp theo là các tỉnh Shiga (18,2%); Kanagawa (16,2%), Akita, Hokkaido… Nhìn vào khu vực, chính quyền địa phương có tỷ lệ thành viên nữ thấp thường thấy ở vùng Kyushu, Shikoku, Hokuriku… chính quyền địa phương có tỷ lệ nữ cao thường thấy ở vùng Kanto và Kinki. Xét về tỷ lệ chung trên toàn quốc, tỷ lệ thành viên nữ trong Hội đồng thành phố và Hội đồng quận là 13,76%, nhưng trong Hội đồng tỉnh vẫn còn ít chỉ chiếm 8,92%. Ở cấp Hội đồng thị trấn, thôn tỷ lệ này chỉ là 8,87%. Tỷ lệ nữ giữ vai trò người đứng đầu trong các Hội đồng địa phương thậm chí còn thấp hơn rất nhiều. Theo số liệu từ cuộc bầu cử 2015, số lượng tỉnh trưởng nữ chỉ chiếm 4,35%, số lượng thị trưởng nữ là 2,09% và số lượng nữ đứng đầu Hội đồng thị trấn, thôn chỉ là 0,65%[5]. So với nông thôn, phụ nữ Nhật ở thành thị có điều kiện được tiếp xúc với lĩnh vực chính trị nhiều hơn. Họ cũng có nhiều cơ hội để giành quyền tham gia bộ máy chính quyền, góp tâm sức của mình vào công việc chính trị ở địa phương hơn. Do đó, việc nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách bình đẳng giới ở khu vực nông thôn, cũng như gia tăng các cơ hội để phụ nữ nông thôn có thể tham gia các hoạt động chính trị - xã hội trở thành một nhiệm vụ rất cần được chú trọng ở Nhật Bản.

Nhìn chung, tỷ lệ phụ nữ Nhật Bản tham gia Quốc hội, hội đồng địa phương và các tổ chức chính trị những năm qua có tăng nhưng tăng chậm và chưa xứng với tiềm năng. Những con số trên là minh chứng sống động cho thấy bất bình đẳng giới vẫn đang tồn tại một cách rõ nét trong lĩnh vực chính trị ở Nhật Bản. So với nam giới, sự tham chính của phụ nữ là mờ nhạt hơn hẳn. Điều đó phản ánh quyền tham chính của phụ nữ Nhật Bản chưa được thực thi một cách phổ biến và rộng rãi trong thực tế.

Vũ Phương Hoa

Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á

[1] 日本労働組合総連合会(連合)総合男女・雇用平等局、「2019年男女平等月間学習会資料女性の政治参画について」(Tổng Liên đoàn Lao động Nhật Bản (Công đoàn), Tổng cục Bình đẳng Giới và Việc làm, 「Tháng bình đẳng giới năm 2019 – Tài liệu của nhóm nghiên cứu về sự tham gia chính trị của phụ nữ」).

[2]内閣府男女共同参画局(2020),「諸外国の政治分野における男女共同参画の状況」(Văn phòng Bình đẳng giới – Văn phòng Nội các (2020), Thực trạng bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị ở các quốc gia).

[3]スティール若希 (2013),『日本の衆議院における女性代表』, (Steel Wakaki (2013), Đại biểu nữ tại Hạ Viện Nhật Bản, Đại học Tohoku).

[4], [5]高橋亮平(2018),「女性政治家比率都道府県ランキング」,日本政治教育センター代表理事 (Ryohei Takahashi (2018), Tỷ lệ nữ chính trị gia theo xếp hạng tỉnh, Trung tâm Giáo dục Chính trị Nhật Bản).

https://news.yahoo.co.jp/byline/takahashiryohei/20180522-00085502/

[6] Nguyễn Duy Dũng (2007), Kinh nghiệm giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc của Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội.

 

 


 


Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn