GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

CÁC XU HƯỚNG VÀ HẠN CHẾ TRONG PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC DỰA TRÊN NỀN TẢNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TẠI NHẬT BẢN TỪ ĐẠI DỊCH COVID-19 (Phần 1)

Đăng ngày: 10-02-2022, 07:21

Trong nỗ lực ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, hầu hết các chính phủ trên toàn cầu đã quyết định tạm thời đóng cửa các cơ sở giáo dục. Khi Nhật Bản đóng cửa tất cả các trường học vào tháng 3 năm 2020, nhiều cuộc thảo luận về cách quản lý dịch vụ giáo dục (trong và sau đại dịch) đã diễn ra. Theo truyền thống, năm học của Nhật Bản bắt đầu vào tháng 4 (năm học của nhiều quốc gia khác bắt đầu vào tháng 9). Có ý kiến ​​cho rằng năm học của Nhật Bản cũng nên bắt đầu vào tháng 9 như một biện pháp đồng bộ để quản lý giáo dục. Ngoài ra, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản (MEXT) đã triển khai hệ thống hỗ trợ tài chính cho giáo dục đại học vào tháng 4 năm 2020, bao gồm giảm học phí, miễn giảm và cung cấp học bổng. Thêm vào đó, sinh viên đang yêu cầu trường học của họ - đặc biệt là các cơ sở tư nhân - giảm học phí vì họ không sử dụng bất kỳ cơ sở vật chất nào của trường (chẳng hạn như ký túc xá, lớp học và thư viện) trong khi sống cô lập ở nhà. Hơn nữa, nhiều sinh viên hiện đang gặp khó khăn về tài chính do bị mất việc làm thêm hoặc thu nhập của gia đình giảm sút. Thậm chí nhiều sinh viên đang cân nhắc việc chấm dứt việc học của mình. Nhưng thực tế,  không có trường đại học nào ở Nhật Bản giảm học phí để phù hợp với sinh viên; thay vào đó, một số tổ chức đã quyết định cung cấp học bổng hoặc trợ cấp để hỗ trợ tài chính cho họ.

Để đối phó với những khó khăn từ đại dịch, các dịch vụ giáo dục tại Nhật Bản đã đẩy mạnh chuyển đổi kỹ thuật số. Trên thực tế, một số biện pháp và hành động được thực hiện trong thời kỳ đại dịch có thể trở thành thông lệ hàng ngày khi sự lây lan của vi rút đã giảm.

  1. 1. Các xu hướng gần đây trong dịch vụ giáo dục: Chuyển đổi kỹ thuật số

Hai xu hướng gần đây về chuyển đổi kỹ thuật số trong ngành giáo dục trong đại dịch COVID-19 là mở rộng giáo dục từ xa và đổi mới trong công nghệ giáo dục. Đây là những xu hướng tất yếu, được thúc đẩy bởi nhu cầu giáo dục trong thời kỳ đại dịch.

1.1. Mở rộng đào tạo từ xa

Đại dịch COVID-19 buộc các nhà giáo dục phải khám phá và triển khai các phương pháp đào tạo từ xa trên quy mô lớn hơn bao giờ hết. Mặc dù thực hành giáo dục từ xa đã được áp dụng trước đại dịch COVID-19, nó không phổ biến và hầu hết các hoạt động học tập đều diễn ra trong lớp học. Ban đầu, khi các trường học Nhật Bản đóng cửa vào tháng 3 năm 2020, hầu hết các trường học đều hoãn các lớp học của họ trong một thời gian nhất định. Khi thời gian này bị kéo dài, các trường đã bắt đầu thực hiện đào tạo từ xa, vào thời điểm đó, việc này nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn mới.

Giáo dục từ xa có lịch sử lâu đời. Những nỗ lực đầu tiên trong việc đào tạo từ xa đã được thực hiện vào thế kỷ 19 khi các tài liệu khóa học dựa trên bản in được gửi đến người học thông qua dịch vụ bưu chính. Gần đây hơn, thế hệ thứ hai của giáo dục từ xa liên quan đến sự kết hợp của đa phương tiện (như đài phát thanh, truyền hình, băng cassette và CD-ROM) và tài liệu in. Thế hệ thứ ba của đào tạo từ xa dựa trên Internet.

Sự xuất hiện của hình thức đào tạo từ xa dựa trên Internet được cho là do cuộc cách mạng thông tin. Ngoài tài liệu in, tài liệu khóa học hiện còn có sẵn ở định dạng kỹ thuật số. Ngày nay, học sinh thậm chí có thể tiến hành các thí nghiệm và mô phỏng ảo bằng các ứng dụng phần mềm giáo dục. Bên cạnh những khác biệt này, đào tạo từ xa thế hệ thứ ba về cơ bản đã không giống như hai thế hệ đầu tiên. Mục tiêu chính của thế hệ thứ nhất và thứ hai là sản xuất và phân phối tài liệu giảng dạy và học tập cho người học. Các hoạt động học tập chủ yếu là một chiều, và tính tương tác được hỗ trợ một chút. Còn học tập dựa trên Internet cho phép tương tác giữa giảng viên và sinh viên.

Học từ xa dựa trên Internet có thể được phân loại thành hai mô hình: các khóa học trực tuyến được ghi lại và các buổi học tương tác trực tuyến. Phần sau đây đánh giá chi tiết các mô hình này và giá trị của chúng.

  1. Các khóa học trực tuyến được ghi lại

Việc sử dụng các khóa học trực tuyến đã được ghi lại chủ yếu có thể thực hiện được nhờ việc mở rộng Khóa học Trực tuyến Mở (MOOC). MOOC là một nền tảng giáo dục trực tuyến cung cấp hầu hết nội dung miễn phí. MOOC là kết quả của Học viện Kahn trên YouTube, cung cấp nhiều khóa học khác nhau cho các trường đại học, các cơ sở đào tạo kỹ năng và việc làm cũng như các trường mầm non. Học sinh có thể chọn các khóa học của riêng mình.

MOOC có nhiều ưu điểm như:

(1) Có thể cải thiện hiệu quả học tập bằng cách cho phép mọi người học ở bất cứ đâu.

(2)  MOOC cho phép sinh viên linh hoạt: Sinh viên có thể tham dự các bài giảng khi phù hợp với họ và học theo tốc độ của riêng họ. Do đó, một sinh viên có năng lực có thể học chuyên sâu và hoàn thành một khóa học trong vòng vài ngày, trong khi các dịch vụ giáo dục truyền thống thiết kế chương trình giảng dạy để được hoàn thành trong một khung thời gian nhất định (tức là mỗi học kỳ) và trong một lớp học.

(3) MOOC cung cấp quyền truy cập toàn cầu, cho phép sinh viên lựa chọn cấp độ khóa học và người hướng dẫn của họ. Theo truyền thống, sinh viên phải đăng ký học tại một cơ sở giáo dục cụ thể, tuân theo chương trình giảng dạy của trường, và nhận được sự hướng dẫn từ các giáo viên được tuyển dụng; nói cách khác, các lựa chọn của họ bị giới hạn. Ở cấp tiểu học và trung học cơ sở, học sinh hầu như không có lựa chọn thay thế về chương trình học và giáo viên hướng dẫn. Trong giáo dục đại học, các lựa chọn về chương trình giảng dạy và giáo viên hướng dẫn tăng lên: sinh viên có thể đăng ký học tại một cơ sở giáo dục và học hỏi từ các cơ sở giáo dục khác, hoặc sử dụng các chương trình trao đổi và hệ thống chuyển đổi tín chỉ. Tuy nhiên, các tùy chọn này được giới hạn cho các tổ chức hợp tác. Bên cạnh đó, việc chuẩn bị và di dời đến các khu vực hoặc quốc gia khác rất tốn kém. MOOC tuy nhiên, cho phép học sinh chọn một khóa học ở trình độ phù hợp và một người hướng dẫn giảng dạy theo cách mà học sinh muốn học. Nói tóm lại, MOOC làm cho việc học tập theo yêu cầu của các cá nhân trở nên khả thi.

(4) MOOC cung cấp quyền truy cập mở và theo đuổi cơ hội giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người. Trong khi cơ hội giáo dục bình đẳng không thể thực hiện đối với giáo dục truyền thống do những khó khăn từ điều kiện sống của học viên, dẫn tới những thiệt thòi về khả năng tìm kiếm việc làm, thì việc học miễn phí và có thể truy cập từ bất kỳ đâu của MOOC đã giúp giải quyết vấn đề này.

(5) MOOC có thể vượt qua rào cản ngôn ngữ trong ngành giáo dục. Mặc dù hầu hết các khóa học trên nền tảng MOOC đều được giảng dạy bằng tiếng Anh - điều này có thể gây khó khăn cho sinh viên Nhật Bản - một số khóa học gần đây cung cấp phụ đề tiếng Nhật. Những hỗ trợ và hỗ trợ học tập như vậy mở rộng cơ hội của sinh viên bằng cách cho phép họ tìm thấy các khóa học trực tuyến phù hợp được giảng dạy bởi các giảng viên xuất sắc trên toàn cầu.

Tuy nhiên, phương pháp giáo dục này vẫn còn tồn tại những hạn chế như: MOOC là phương pháp giáo dục một chiều, tức là nó không cho phép người hướng dẫn thực hiện hành động tương tác với học viên trong quá trình giảng dạy. Do đó, những khó khăn, khúc mắc trong quá trình học không được giải quyết triệt để như khi học trực tiếp.

  1. Các khóa học trực tuyến tương tác, trực tiếp

Khắc phục điểm hạn chế lớn nhất trong phương pháp giáo dục trực tuyến ghi lại, có thể kể đến phương pháp giáo dục trực tuyến, trực tiếp. Phương pháp này cho phép học viên và người hướng dẫn tương tác hai chiều. Học viên có thể tham gia bài giảng trong thời gian thực, đặt câu hỏi và thảo luận về công việc với người hướng dẫn và bạn học từ mọi nơi trên thế giới.

1.2. Phát triển và mở rộng công nghệ giáo dục

Trong nỗ lực ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, hầu hết các chính phủ trên thế giới đã tạm thời đóng cửa các trường học. Giáo dục tại nhà hiện là lựa chọn tất yếu cho các bậc phụ huynh vì nội dung học tập có thể truy cập từ xa thông qua các công nghệ giáo dục (EdTechs). Có thể thấy rằng, đại dịch COVID-19 đang mang đến cho hệ thống giáo dục một cơ hội mới để tiếp nhận các EdTech mới.

Trong những năm gần đây, đã có sự đổi mới nhanh chóng trong EdTechs. EdTech hiện tại chủ yếu là sử dụng các thiết bị CNTT mới và số hóa sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy. Tuy các EdTech như vậy cải thiện hiệu quả của giáo dục, nhưng chúng không làm tăng hiệu quả và do đó, không chuyển đổi cơ bản dịch vụ giáo dục.

 

(Còn nữa)

 

Nguyễn Thị Ngọc Anh

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Byeongwoo Kang (2021), How the COVID-19 Pandemic Is Reshaping the Education Service, Kyoto, Japan

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC7869946/

  1. Center for strategic and international studies (2020), The impact of Covid-19 on education inequality in Japan, https://www.csis.org/blogs/new-perspectives-asia/impact-covid-19-education-inequality-japan

 

Tin tức khác

CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN
CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN

Ngày 12/12, Hiệp hội Kiểm tra năng lực chữ Hán (Kanji) của Nhật Bản đã chính thức công bố chữ Hán của năm 2024 là "Kim" (金). Đây là lần thứ năm t ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Tuy nhiên, vấn đề này không đơn giản. Về các “giả thuyết” mà Higashino đã đề cập ở trên, nghiên cứu tiếp theo của của Takayuki Tanaka trong cuốn “U ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Điểm mấu chốt ở đây là bối cảnh các chuyến viếng thăm của các tăng sư như Phật Triết. Tại đây có câu chuyện lịch sử thú vị liên quan đến các sứ thầ ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Cách thời điểm kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam đúng 10 năm, vào mùa hè (từ ngày 7/7 đến 22/9) năm 2013, nhân kỷ niệm 40 năm t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn