GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

CÁC XU HƯỚNG VÀ HẠN CHẾ TRONG PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC DỰA TRÊN NỀN TẢNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TẠI NHẬT BẢN TỪ ĐẠI DỊCH COVID-19 (Phần 2)

Đăng ngày: 10-02-2022, 07:26

1.2. Phát triển và mở rộng công nghệ giáo dục

Trong nỗ lực ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, hầu hết các chính phủ trên thế giới đã tạm thời đóng cửa các trường học. Giáo dục tại nhà hiện là lựa chọn tất yếu cho các bậc phụ huynh vì nội dung học tập có thể truy cập từ xa thông qua các công nghệ giáo dục (EdTechs). Có thể thấy rằng, đại dịch COVID-19 đang mang đến cho hệ thống giáo dục một cơ hội mới để tiếp nhận các EdTech mới.

Trong những năm gần đây, đã có sự đổi mới nhanh chóng trong EdTechs. EdTech hiện tại chủ yếu là sử dụng các thiết bị CNTT mới và số hóa sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy. Tuy các EdTech như vậy cải thiện hiệu quả của giáo dục, nhưng chúng không làm tăng hiệu quả và do đó, không chuyển đổi cơ bản dịch vụ giáo dục.

  1. Sử dụng hệ thống quản lý học tập

Một số EdTech, chẳng hạn như hệ thống quản lý học tập (LMS) đang dần thay đổi đáng kể ngành giáo dục truyền thống. LMS là ứng dụng phần mềm hỗ trợ quản lý, lập tài liệu, theo dõi, báo cáo và cung cấp các khóa học giáo dục và các chương trình đào tạo, học tập và phát triển. Các công ty thường sử dụng LMS cho các khóa đào tạo trực tuyến cho nhân viên. Giờ đây, LMS được sử dụng rộng rãi hơn trong dịch vụ giáo dục. Mặc dù giá trị LMS  từng rất tốn kém, nhưng gần đây, sự phát triển của các LMS dựa trên công nghệ mới đã làm giảm chi phí ban đầu và chi phí vận hành của các hệ thống này.

Lợi ích của LMS trong dịch vụ giáo dục có thể kể đến như: (1) Nó cải thiện hiệu quả việc chuẩn bị giảng dạy và giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên. Ví dụ, sinh viên có thể nộp bài tập của họ trực tuyến. Theo đó, giảng viên không cần phải in tài liệu và bài tập, tiết kiệm chi phí và có thêm thời gian chuẩn bị cho việc giảng dạy. Ngoài ra, một số LMS có chức năng dịch vụ mạng xã hội (SNS) để người hướng dẫn, học sinh và phụ huynh có thể giao tiếp với nhau. (2) LMS thông báo cho các giảng viên về các hoạt động giáo dục ngay lập tức vì nó cho phép sinh viên và giảng viên xác nhận việc tham dự, nộp bài tập và hoàn thành các bài kiểm tra và khảo sát đơn giản trực tuyến. Người hướng dẫn có thể hiểu sâu về môn học hoặc kết quả hoạt động của sinh viên và đưa ra phản hồi có liên quan bằng cách phân tích dữ liệu trên hệ thống. Những nỗ lực này giúp cải thiện tài liệu và phương pháp trong dịch vụ giáo dục. Như một học giả đã chỉ ra, học sinh Nhật Bản có xu hướng im lặng trong lớp học ngay cả khi giáo viên khuyến khích họ nói chuyện, tuy nhiên việc sử dụng các ứng dụng giáo dục như trên đã cải thiện sự tương tác giữa người dạy và người học.

b.  Sử dụng công cụ giáo dục dựa trên trí tuệ nhân tạo

Các công cụ giáo dục dựa trên trí tuệ nhân tạo được coi là công cụ đổi mới nhất trong số các công cụ giáo dục mới được phát triển. Các công cụ trí tuệ nhân tạo (AI) thu thập dữ liệu về mức độ hiểu biết của học sinh, phân tích và sau đó xác định cách cải thiện khả năng hiểu.

Hai công ty EdTech hàng đầu tại Nhật Bản là ATAMA và COMPASS đã phát triển các công cụ giáo dục hỗ trợ AI của riêng họ, đó là Atama Plus và Qubena. Những công cụ này cho phép học sinh trả lời câu hỏi và giải quyết vấn đề bằng máy tính bảng. Sau đó, công cụ AI sẽ thu thập và phân tích nhật ký và các dữ liệu khác (chẳng hạn như thời gian trả lời và câu trả lời) để xác định mức độ hiểu bài, điểm mạnh và điểm yếu của học sinh. Sau đó, công cụ AI sẽ thử thách sinh viên với các vấn đề bổ sung để giúp họ cải thiện mức độ hiểu biết của mình. Có thể thấy rằng một nền giáo dục lý tưởng là nền giáo dục biết tự điều chỉnh và AI mang lại cơ hội đưa ra những chỉ dẫn phù hợp cho học sinh, nhờ vậy, tác dụng của giáo dục được nâng cao. Bởi thế một số trường ở Nhật Bản đang giới thiệu các công cụ giáo dục tương tự trong quá trình luyện thi.

Thêm vào đó, tác động của các công cụ AI đối với hiệu ứng giáo dục cũng cho thấy nhiều hiệu quả tích cực. Ví dụ như vào tháng 7 năm 2018, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI), đã chọn Qubena cho chương trình thi toán dành cho học sinh lớp 1, 2 và 3 tại một trường trung học cơ sở ở Tokyo từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019. Trong khi thời gian học tiêu chuẩn của khóa học là 62 giờ, học viên sử dụng Qubena đã hoàn thành khóa học trong 34 giờ. Hơn nữa, những sinh viên này đã thể hiện sự hiểu biết tốt hơn và đạt điểm cao hơn. Ngoài ra, không chỉ những sinh viên đã sử dụng Qubena bày tỏ thái độ tích cực đối với các môn học có liên quan; họ cũng đã tăng cường tương tác với người hướng dẫn và bạn cùng lớp, đặt nhiều câu hỏi hơn và trao đổi phản hồi với các bạn cùng lớp.

2. Mối quan tâm và hạn chế của chuyển đổi kỹ thuật số trong dịch vụ giáo dục

Đại dịch COVID-19 gây ra một số lo ngại về dịch vụ giáo dục bao gồm cả việc các lớp học bị hoãn. Học sinh lo ngại rằng việc học của họ sẽ bị tụt hậu. Tuy nhiên, những lo ngại này chỉ là tạm thời. Các trường đều có thể bố trí lớp học phụ đạo. Tuy nhiên, điều đáng quan ngại hơn lại là những hạn chế cơ bản do quá trình chuyển đổi kỹ thuật số trong dịch vụ giáo dục gây ra như: (1) quản lý động cơ học tập kém, (2) tác động tiêu cực của việc sử dụng thiết bị CNTT trong giáo dục, (3) bất bình đẳng giáo dục theo khoảng cách số. Những lo ngại và hạn chế không hoàn toàn do đại dịch COVID-19 gây ra.

(1) Quản lý động cơ học tập kém

Hình thức đào tạo từ xa ngày càng phổ biến và một số chuyên gia cho rằng hình thức học này cuối cùng sẽ thay thế giáo dục truyền thống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa thể chắc chắn rằng liệu học từ xa có cải thiện tác dụng của giáo dục, hay thậm chí đảm bảo việc học thành công hay không. Các buổi học tương tác trực tuyến rất mới mẻ nhưng vẫn chưa có nghiên cứu nào nói về tác dụng giáo dục của chúng. Song một số nghiên cứu về tác dụng giáo dục của MOOC đã chỉ ra rằng tỷ lệ hoàn thành khóa học ở mức rất thấp. Ngay cả khi học viên được cung cấp nội dung giáo dục tốt trong môi trường giáo dục phù hợp thì rất ít trong số họ duy trì được động cơ học tập ban đầu của mình.

(2) Ảnh hưởng tiêu cực của thiết bị CNTT trong giáo dục

Thiết bị CNTT là cơ sở hạ tầng xã hội thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tuy nhiên, có một mối lo ngại về việc sử dụng các thiết bị CNTT ở trẻ em. Những nhà tiên phong lãnh đạo cuộc cách mạng thông tin lại rất nghiêm khắc đối với việc sử dụng công nghệ của con cái họ. Hơn nữa, ngay cả khi sinh viên thừa nhận rằng các thiết bị CNTT là thứ gây mất tập trung, họ vẫn tiếp tục sử dụng chúng vì nghĩ rằng lợi ích lớn hơn chi phí.

Một số nghiên cứu và báo cáo đã điều tra tác động của việc sử dụng các thiết bị CNTT ở trẻ em đã chỉ ra rằng không có sự khác biệt về kỹ năng đọc, toán học hoặc khoa học giữa học sinh ở các quốc gia đã đầu tư nhiều vào công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) cho giáo dục và học sinh ở các nước khác. Báo cáo gợi ý rằng việc xây dựng sự hiểu biết sâu sắc, khái niệm và tư duy bậc cao đòi hỏi sự tương tác chuyên sâu giữa giáo viên và học sinh và công nghệ đã làm xao lãng giá trị này.

Ngoài ra, một số nghiên cứu so sánh khác về hiệu quả của việc ghi chép bằng tay và bằng máy tính xách tay cũng cho thấy rằng: việc ghi chép bằng tay đòi hỏi sinh viên phải chọn lọc thông tin quan trọng và tham gia vào nội dung, do đó, họ sẽ học tập hiệu quả hơn. Mặc dù máy tính xách tay cho phép sinh viên ghi chú dễ dàng và nhanh chóng, nhưng sinh viên lại làm như vậy một cách bừa bãi và thiếu suy nghĩ và dẫn đến hiệu quả không cao.

(3) Bất bình đẳng giáo dục theo phân chia kỹ thuật số

Cuối cùng, tác động của khoảng cách kỹ thuật số đối với ngành giáo dục cũng cần được giải quyết. Khoảng cách kỹ thuật số là một khái niệm mới và nó đề cập đến sự bất bình đẳng trong xã hội về mặt kiến ​​thức, tức là khoảng cách giữa những người có khả năng tiếp cận với CNTT-TT và những người không tiếp cận với CNTT. Khoảng cách kỹ thuật số không chỉ tồn tại giữa các quốc gia tiên tiến và kém tiên tiến hơn, mà còn giữa các khu vực trong cùng một quốc gia.

Tại Nhật Bản, khoảng một trong hai mươi trẻ em Nhật Bản thiếu các tiện nghi cần thiết cho việc học trực tuyến như không gian học tập yên tĩnh, máy tính hoặc sách giáo khoa. Nhật Bản là quốc gia có thành tích kém thứ tư về chỉ số này trong toàn khối các nước phát triển OECD , chỉ tốt hơn Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico. Nhật Bản cũng tụt hậu đáng kể so với các nước OECD khác về khả năng kết hợp hiệu quả công nghệ truyền thông thông tin (ICT) vào chương trình giảng dạy ở trường học. Một cuộc khảo sát của Bộ giáo dục vào tháng 4 năm 2020 cho thấy các trường công lập Nhật Bản có khả năng thích ứng rất ít: chỉ 5% các cơ quan quản lý địa phương trên toàn quốc lập kế hoạch cho các lớp học trực tuyến trong khi các trường học bị đóng cửa do đại dịch.

(4)   Hiện tại, một số lượng lớn trường đại học đang gặp phải những thách thức với đào tạo từ xa và EdTechs, đặc biệt là vì nó phải được giới thiệu trong một khung thời gian ngắn. Ví dụ, một số bài giảng trực tuyến đã bị gián đoạn bởi những vị khách không mời, dẫn đến các tình huống gây khó chịu và quấy rối. Máy chủ của các trường đại học cũng ngừng hoạt động do lượng truy cập trực tuyến tăng đột biến.

(5)   Số hóa không phải là một quá trình đơn giản, và cộng đồng giáo dục chưa sẵn sàng để phát huy tối đa lợi ích của đào tạo từ xa. Hiện nay, giáo dục từ xa kéo theo sự trùng lặp nội dung lớp học trên nền tảng trực tuyến. Hơn nữa, nhiều giáo viên và phụ huynh không thoải mái hoặc không quen với công nghệ. Các bậc cha mẹ cũng gặp khó khăn trong việc giám sát việc học từ xa hoặc học tại nhà của trẻ nhỏ. Do đó, quá trình chuyển đổi hoàn toàn sang đào tạo từ xa không chỉ đòi hỏi cơ sở hạ tầng CNTT-TT vững chắc mà còn cần sự hỗ trợ của giáo viên, học sinh và phụ huynh

Tóm lại, tại Nhật Bản, để giải quyết những thách thức từ các biện pháp cô lập trong đại dịch Covid-19, hệ thống giáo dục dựa trên các nền tảng công nghệ thông tin đã được ứng dụng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Kéo theo đó, các ứng dụng đào tạo và quản lý học tập từ xa liên tục được đổi mới và đem lại nhiều hiệu quả. Tuy nhiên, những hạn chế của các phương pháp học tập này có thể kể đến như: quản lý động cơ học tập kém, ảnh hưởng tiêu cực của các thiết bị công nghệ thông tin, bất bình đẳng phân chia kỹ thuật số, gián đoạn do bị xâm nhập và sự mới lạ đối với người sử dụng đang tồn tại và cần có những biện pháp khắc phục trong tương lai.

Giáo dục kỹ thuật số và giáo dục truyền thống đều có điểm mạnh và điểm yếu. Trong tương lai, hình thức đào tạo từ xa sẽ mang đến cho sinh viên nhiều cơ hội và lựa chọn hơn so với hình thức giáo dục truyền thống. Công nghệ giáo dục sẽ cho phép người học làm chủ việc học của mình. Việc học sinh làm chủ việc học của mình chính là “bình thường mới” của dịch vụ giáo dục đang dần định hình.

Nguyễn Thị Ngọc Anh

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Byeongwoo Kang (2021), How the COVID-19 Pandemic Is Reshaping the Education Service, Kyoto, Japan

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC7869946/

  1. Center for strategic and international studies (2020), The impact of Covid-19 on education inequality in Japan, https://www.csis.org/blogs/new-perspectives-asia/impact-covid-19-education-inequality-japan

 

Tin tức khác

CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN
CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN

Ngày 12/12, Hiệp hội Kiểm tra năng lực chữ Hán (Kanji) của Nhật Bản đã chính thức công bố chữ Hán của năm 2024 là "Kim" (金). Đây là lần thứ năm t ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Tuy nhiên, vấn đề này không đơn giản. Về các “giả thuyết” mà Higashino đã đề cập ở trên, nghiên cứu tiếp theo của của Takayuki Tanaka trong cuốn “U ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Điểm mấu chốt ở đây là bối cảnh các chuyến viếng thăm của các tăng sư như Phật Triết. Tại đây có câu chuyện lịch sử thú vị liên quan đến các sứ thầ ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Cách thời điểm kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam đúng 10 năm, vào mùa hè (từ ngày 7/7 đến 22/9) năm 2013, nhân kỷ niệm 40 năm t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn