GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

TÁC ĐỘNG CỦA DỊCH COVID-19 ĐẾN CÁC CÔNG TY CHẾ TẠO NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM (Phần 1)

Đăng ngày: 29-11-2022, 08:19

1. Kế hoạch đa dạng hóa địa điểm đầu tư của các công ty chế tạo Nhật Bản

Lý do của kế hoạch đa dạng hóa địa điểm đầu tư

Trước đại dịch Covid-19, trên thế giới đã phát triển một hệ thống phân công lao động toàn cầu và hoạt động của các công ty Nhật Bản cũng diễn ra dựa trên nền tảng của chuỗi cung ứng xuyên quốc gia này. Nhiều công ty đa quốc gia đã đầu tư, đặt cứ điểm sản xuất tại Trung Quốc, đặc biệt là các công ty chế tạo Nhật Bản. Tuy nhiên những năm gần đây, các cuộc xung đột giữa Mỹ với Trung Quốc từ thương mại, công nghệ, an ninh kinh tế đến con người… đã tác động đáng kể đến chuỗi cung ứng, ảnh hưởng không nhỏ đến các công ty Nhật Bản tại Trung Quốc. Đặc biệt sau sự gián đoạn nghiêm trọng của chuỗi cung ứng tại Trung Quốc do sự bùng phát của dịch Covid-19, chính phủ Nhật Bản đã khuyến khích các công ty dịch chuyển các cứ điểm sản xuất đặt tại Trung Quốc sang một nước thứ ba hoặc đưa trở lại Nhật Bản.[1] Ngoài ý định đa dạng hóa địa bàn đầu tư để giảm thiểu rủi ro phát sinh, việc chi phí tăng khiến lợi nhuận thu hẹp cũng là lý do dẫn đến sự cân nhắc về việc chuyển dịch của các công ty Nhật Bản. Do căng thẳng Mỹ-Trung, thuế giữa Mỹ và Trung Quốc tăng vọt. Mức thuế trung bình của Mỹ đối với Trung Quốc từ 3,1% vào tháng 1/2018 đã tăng mạnh từ sau tháng 12/2019. Ngay cả khi Mỹ-Trung đạt được thỏa thuận đầu tiên, thuế vẫn duy trì ở mức cao là 19,3%. Đây là yếu tố chính khiến lợi nhuận của các công ty Nhật Bản đầu tư sản xuất tại Trung Quốc sau đó xuất khẩu sang Mỹ bị sụt giảm. Ngoài ra, phí lao động tại Trung Quốc cũng đã gia tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Mức lương của công nhân phổ thông trong ngành chế tạo ở Thâm Quyến - trung tâm của ngành sản xuất, chế tạo -  năm 2008 là 204 USD/ tháng, tương đương các nước châu Á khác. Tuy nhiên, mức lương này đã tăng lên 490 USD vào năm 2018, cao hơn đa phần các nước Đông Nam Á (năm 2018 mức lương tháng bình quân của công nhân ngành công nghiệp chế tạo Malaysia và Thái Lan là 413 USD, Indonesia 308 USD, Ấn Độ 265 USD, Philippines 234 USD).[2] Về chi phí mặt bằng, giá thuê hàng tháng tại khu công nghiệp (2018) là 3,2 USD/m2 ở Thâm Quyến, trong khi ở Hà Nội khoảng 0,2 USD. Ngoài ra, liên quan đến thuế, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế chuyển cổ tức về nước lần lượt là 25% và 10% ở Thâm Quyến, 20% và 0% ở Hà Nội.

Lý do Việt Nam là địa điểm đầu tư được đánh giá cao

Về lý do Việt Nam nổi lên như một điểm sáng trong số các lựa chọn của các công ty Nhật Bản, ngoài giảm thiểu rủi ro về địa chính trị, tránh mức thuế cao, giảm chi phí, Việt Nam cũng có nhiều tương đồng với Trung Quốc về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, đối tác thương mại, do đó được đánh giá là thay thế tối ưu cho việc sản xuất tại Trung Quốc.[3] Việt Nam gia nhập WTO năm 2007, Nhật Bản và Việt Nam đã ký hiệp định đầu tư vào năm 2004. Bên cạnh đó, các chính sách ưu đãi thuế, dân số đông, vị trí địa lý gần Trung Quốc cũng ảnh hưởng tích cực đến sự đánh giá của các công ty. Philippines cũng là điểm đến được đánh giá cao, nhưng Việt Nam với vị trí là một điểm nút của châu Á nối với Trung Quốc vẫn có lợi thế hơn về mặt hậu cần. Trong các cuộc khảo sát thường niên 19 năm qua do JETRO thực hiện đối với các công ty Nhật Bản hoạt động tại Trung Quốc, Việt Nam cũng thường nhận được những đánh giá tích cực.

2. Việt Nam trong làn sóng Covid-19 thứ 4

Cho đến giữa năm 2021 Việt Nam đã trải qua 3 làn sóng dịch Covid-19. Làn sóng đầu tiên với chủng virus nguyên phát từ Vũ Hán có một số bệnh nhân nặng nhưng không có ca tử vong. Làn sóng thứ 2 ở Đà Nẵng gây 35 ca tử vong ở những bệnh nhân nặng và có bệnh nền. Làn sóng thứ 3 ở Hải Dương với biến chủng Anh là chủ yếu, mặc dù số ca nhiễm khá lớn nhưng không có ca tử vong. Làn sóng thứ 4 từ cuối tháng 4/2021 chủ yếu do biến chủng Ấn Độ gây ra có quy mô lây nhiễm lớn hơn rất nhiều so với 3 làn sóng dịch trước đó đã bùng phát cả trong bệnh viện, các khu công nghiệp lớn cũng như trong cộng đồng nhiều địa phương.

 

Số ca nhiễm Covid-19 mới được xác nhận trong ngày tại Việt Nam

 

Nguồn: COVID-19 Data Repository by the Center for Systems Science and Engineering (CSSE) at Johns Hopkins University

Hoạt động sản xuất tại Việt Nam đã bị ảnh hưởng khá nặng nề bởi làn sóng Covid-19 thứ tư này. Trước khi làn sóng Covid-19 thứ tư diễn ra, giá trị của ngành sản xuất Việt Nam đang liên tục tăng trưởng khá khả quan kể từ năm 2011. Chỉ số PMI[4] tháng 4/2021 đạt mức kỷ lục 54,70. Tỷ lệ sử dụng đất nhà máy cũng tăng mạnh kể từ năm 2018, đạt 74% vào năm 2020. Tuy nhiên, tới tháng 7/2021, do ảnh hưởng của việc giãn cách xã hội và một số yếu tố khác, chỉ số PMI tháng 6 và 7/2021 đã giảm rất nhanh, chỉ ở mức 44,10 - 45,10.[5]

Giống như đa phần quốc gia Đông Nam Á khác, trong bối cảnh số ca nhiễm tăng nhanh, nhiều hoạt động kinh tế - xã hội tại Việt Nam từ khoảng nửa sau năm 2021 đã được thắt chặt, bởi vậy hoạt động sản xuất tại các công xưởng, nhà máy cũng bị ảnh hưởng. Tại các nhà máy việc giãn cách cũng được thực hiện, bao gồm nguyên tắc “3 tại chỗ”, và không ít nhà máy phải đóng cửa vì không thể đáp ứng các điều kiện quy định. Hoạt động sản xuất đình trệ, khối lượng sản xuất giảm, lượng đơn đặt hàng mới giảm nhanh chóng. Hoạt động sản xuất tại không ít khu công nghiệp bị gián đoạn, nhiều nhà máy phải tạm ngừng sản xuất. Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh (JCCH), ngay cả những công ty có thể duy trì hoạt động, tỷ lệ lấp đầy cũng giảm xuống còn 10% đến 50% so với bình thường. Tại TP. Hồ Chí Minh, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp trong tháng 8 giảm mạnh tới 49,2% so với cùng kỳ năm 2020. Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam trong quý III (từ tháng 7-9) là - 6,2% so với cùng kỳ năm 2020. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ khi Tổng Cục Thống kê bắt đầu công bố GDP hàng quý vào năm 2000[6].

3. Những ảnh hưởng chủ yếu trong làn sóng Covid-19 thứ tư

Đối với các công ty chế tạo Nhật Bản

Theo đánh giá của một số chuyên gia phía Nhật Bản, ảnh hưởng của Covid-19 ở Đông Nam Á bao gồm Việt Nam tại thời điểm đó còn lớn hơn tại các nước Đông Bắc Á và Tây Âu. Trong giai đoạn bệnh dịch bùng phát, nhất là từ khoảng quý III năm 2021, các công ty chế tạo Nhật Bản tại Việt Nam cũng đã phải đối mặt với không ít khó khăn. Về tình hình hoạt động, theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản tại TP. Hồ Chí Minh (VCCI-HCM) và JETRO, từ tháng 7-9/2021 cứ hai công ty chế tạo Nhật Bản tại phía Nam thì một công ty lâm vào tình trạng khó khăn với tỷ lệ hoạt động giảm từ 50% trở xuống; và khoảng 60% số các công ty Nhật Bản bị giảm doanh số. Theo VCCI-HCM, do tác động của dịch bệnh, khoảng 10% số công ty Nhật Bản "ngừng hoặc hoãn lại việc đầu tư mới hay mở rộng hoạt động và "rời hoạt động từ ​​Việt Nam sang nước khác".[7]

Tùy từng địa phương cũng tồn tại một số vấn đề khác như nguy cơ lây nhiễm cao, sự thiếu hụt lao động và cần có thời gian để phục hồi hoạt động. Một số trường hợp, quy định yêu cầu công nhân thường xuyên xét nghiệm PCR cũng tạo gánh nặng về chi phí với các công ty. Nhiều công ty đã tiến hành những biện pháp thận trọng để ngăn ngừa lây nhiễm do sẽ phải ngừng hoạt động nếu xuất hiện ca nhiễm hoặc nghi nhiễm. Một số cho biết đã phải ngừng hoạt động trong vài ngày tại các nhà máy có nhiều ca nhiễm được xác nhận. Tuy nhiên các hạn chế liên quan đã bắt đầu được nới lỏng từ tháng 10. Về nhân sự, khi tại TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam khác vẫn trong tình trạng có nguy cơ lây nhiễm cao, nhiều nhân viên người Nhật và gia đình đã phải tạm thời quay trở về Nhật Bản. Do các hạn chế về nhập cảnh nên cũng có sự chậm trễ trong việc luân chuyển nhân sự, phái cử nhân viên bảo trì và bảo dưỡng, giới thiệu thiết bị mới và hỗ trợ bán hàng.

 

Đối với chuỗi cung ứng

Về những tác động đối với công tác hậu cần, ngoài chi phí logistics tăng và thời gian vận chuyển chậm do thiếu container vận chuyển đường biển, tắc nghẽn tại các cảng và các chuyến bay bị cắt giảm, do sự lây lan của dịch bệnh nên khi di chuyển liên tỉnh /thành phố cần có giấy chứng nhận âm tính, thời hạn kiểm dịch.... Tuy nhiên những vướng mắc này đã dần được xóa bỏ sau khi Nghị quyết 128 về “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” được ban hành.

Trong giai đoạn bệnh dịch bùng phát và thực hiện giãn cách xã hội, việc nhiều công ty Nhật Bản và các công ty con của họ phải ngừng hoạt động đã khiến cho nguồn cung cấp các linh kiện phụ tùng công nghiệp trở nên thiếu hụt, các nhà máy sản xuất ở Nhật Bản phải đóng cửa. Với điều kiện di chuyển bị hạn chế theo nguyên tắc “3 tại chỗ” (công nhân thực hiện sản xuất tại chỗ, bữa ăn tại chỗ, nghỉ ngơi tại chỗ, không cho phép sự đi lại từ nhà máy ra khu dân cư), việc nhiều nhà máy dừng hoạt động đã khiến sản lượng sụt giảm, ảnh hưởng đến sự thông suốt của chuỗi cung ứng. Đặc biệt là trong ngành ô tô, đây thực sự là một vấn đề. Chẳng hạn, về nguồn cung đối với cụm dây cáp điện (ワイヤーハーネス, wiring harness), mặt hàng có trị giá xuất khẩu sang Nhật Bản lớn nhất năm 2020, do phụ thuộc vào các nhà máy tại Việt Nam nên khi các nhà máy này phải ngừng sản xuất, tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng tại Nhật Bản đã diễn ra. Sản xuất cụm dây cáp điện yêu cầu số lượng đông nhân lực trong quá trình bó dây điện nên khâu sản xuất mặt hàng này rất dễ bị ảnh hưởng bởi các quy định hạn chế hoạt động. Do các quy định giãn cách nghiêm ngặt tại TP. Hồ Chí Minh được gia hạn đến cuối tháng 9, tình trạng thiếu nguồn cung đã bị kéo dài. Vấn đề tương tự cũng xuất hiện tại nhiều quốc gia Đông Nam Á khác, chẳng hạn như việc cơ sở sản xuất vật liệu bán dẫn ở Malaysia bị đình chỉ hoạt động tại quốc gia này đã tác động rất lớn đến ngành công nghiệp ô tô toàn cầu do việc thiếu hụt nguồn cung, dẫn đến tình trạng thiếu vật liệu bán dẫn này trên toàn cầu kéo dài từ đầu năm đến ít nhất là tháng 9/2021. Giống với phần lớn các quốc gia Đông Nam Á khác, việc tiêm phòng sau đó đã được đẩy nhanh tại Malaysia, bao gồm cả bang Penang, nơi đặt cơ sở sản xuất và việc nối lại hoạt động của nhà máy dự kiến ​​sẽ sớm được thực hiện, tuy nhiên cũng phải mất một khoảng thời gian dài để phục hồi khả năng cung cấp, đáp ứng được nhu cầu.

Ảnh hưởng về thương mại và đầu tư

Tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng trong bối cảnh dịch Covid-19 thời gian qua cũng ảnh hưởng mạnh đến thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản. Năm 1990 nhìn từ giá trị thương mại hai chiều của Nhật Bản (giá trị xuất khẩu + giá trị nhập khẩu) theo quốc gia/ khu vực, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 50. Tới những năm 2010, sự khác biệt về giá trị thương mại với Nhật Bản giữa Việt Nam và Thái Lan vẫn rất lớn, Thái Lan đứng thứ 6 và Việt Nam đứng thứ 21. Tuy nhiên, tới năm 2020 tình hình đã khác nhiều, Việt Nam chiếm 3,1% (vị trí thứ 7) Thái Lan (3,9%, vị trí thứ 5) trong tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Nhật Bản. Ngoại trừ Thái Lan, Việt Nam đã vượt quá tất cả các thành viên sáng lập của ASEAN (Thái Lan, Singapore, Indonesia, Malaysia, Philippines). Có thể nói, sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau giữa Việt Nam với Nhật Bản ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2021, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản giảm 23%, nhập khẩu từ Nhật Bản cũng giảm 9%. Thương mại sụt giảm cũng ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế khác của Nhật Bản. Trên các phương tiện truyền thông Nhật Bản đã đưa tin khá nhiều về tác động của tình hình dịch bệnh Covid-19 tại Việt Nam. Có thể nói, mối quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam đã trở nên sâu sắc để ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh tế của Nhật Bản. Một báo cáo của JETRO Nhật Bản ngày 10/11/2021 đã nhận xét, trong tương lai tỷ lệ sản xuất ở Việt Nam có thể sẽ trở thành vấn đề cần cân nhắc nhiều hơn  đối với các công ty của Nhật Bản.[8]

Trái ngược với tình hình sản xuất đình trệ trong bối cảnh dịch bệnh nghiêm trọng tại Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á khác, tại Trung Quốc xuất khẩu trong tháng 8/2021 đã tăng vọt tới 25,1% so với cùng năm trước và tăng đáng kể so với mức +18,9% của tháng 7. Một trong những nguyên nhân của sự gia tăng này là do các dây chuyền sản xuất của Trung Quốc gia tăng hoạt động thay thế cho các nhà máy ở Đông Nam Á.

Chiến lược chuyển dịch hoạt động khỏi Trung Quốc đã được khuyến khích ở các nước phát triển, trong đó có Nhật Bản nhằm phân tán các cứ điểm thuộc ngành công nghiệp chế tạo dịch chuyển ra khỏi Trung Quốc và Việt Nam đã trở thành một điểm đến có triển vọng để chuyển giao sản xuất. Tuy nhiên, làn sóng Covid-19 thứ 4 đã thách thức đáng kể xu thế này. Từ tháng 4/2020, Chính phủ Nhật Bản đã công bố kế hoạch hỗ trợ việc đa dạng hóa và dịch chuyển các cơ sở sản xuất từ Trung Quốc sang ASEAN như một biện pháp kinh tế cấp bách đối phó với sự lan rộng của đại dịch Covid-19.[9] Quy mô ngân sách hỗ trợ cho việc quay trở về Nhật Bản là 2200 tỷ yên, đa dạng hóa các cơ sở sản xuất (sang các quốc gia ngoài Trung Quốc như ASEAN) 235 tỷ yên. Tính đến 10/11/2021, trải qua 4 đợt xét duyệt công khai về kế hoạch tại ASEAN, Việt Nam vẫn là điểm đến được quan tâm nhiều. Trong số 92 trường hợp (71 trường hợp xin hỗ trợ thiết bị, 21 trường hợp xin hỗ trợ dự án…) được thông qua, có tới 38 trường hợp (32 trường hợp xin hỗ trợ thiết bị, 6 trường hợp cho dự án...) liên quan đến Việt Nam.[10] Tuy nhiên, xét về hiệu quả thực tiễn, chính sách khuyến khích này có tác động rất giới hạn đến quyết định đầu tư của các công ty Nhật Bản tại Trung Quốc, cho thấy ưu thế của Trung Quốc hầu như không giảm sút trong đại dịch Covid-19.

 

(Còn nữa)

 

TS.Đỗ Thị Ánh

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 



[1] コロナ禍における企業活動の変化 (Những thay đổi trong hoạt động của công ty trong đại dịch Covid-19), https://www.soumu.go.jp/johotsusintokei/whitepaper/ja/r03/html/nd123200.html, truy cập 1/10/2021

[2] 特集 ジェトロのビジネス環境調査  投資関連コスト比較調査 (Điều tra đặc biệt Khảo sát môi trường kinh doanh của JETRO Khảo sát so sánh chi phí liên quan đến đầu tư), https://www.jetro.go.jp/world/business_environment/cost.html, Truy cập 5/10/2021

[3] Leaving China: Which countries might benefit from a relocation of production? https://economics.rabobank.com/publications/2019/august/leaving-china-countries-might-benefit-from-relocation-production/, Truy cập 5/10/2021

[4] Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) là chỉ số đo lường “sức khoẻ” kinh tế của các ngành sản xuất. Mức 50 là ranh giới quan trọng, trên mức 50 cho thấy nền kinh tế đang mở rộng và ngược lại mức dưới 50 cho thấy nền kinh tế đang chậm lại.

[5] https://www.theglobaleconomy.com/, , Truy cập 1/11/2021

[6] Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội Quý II và 9 tháng năm 2021, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/09/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iii-va-9-thang-nam-2021, Truy cập 1/11/2021

[7] ベトナム:ビジネス活動正常化に向けた基本情報, (Việt Nam: Thông tin cơ bản về bình thường hóa hoạt động kinh doanh), https://www.jetro.go.jp/ext_images/world/covid-19/asia/matome/vn.pdf , Truy cập 2/11/2021

 

[8]ロックダウンでベトナムのサプライチェーンが脱中国依存の試金石に (Chuỗi cung ứng của Việt Nam trong giai đoạn lockdown thử thách kế hoạch giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc) , https://www.jetro.go.jp/biz/areareports/2021/1a48c17fcc681c7b.html , Truy cập 10/11/2021

[9] 海外サプライチェーン多元化等支援事業 (Hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa chuỗi cung ứng ở nước ngoài), https://www.jetro.go.jp/services/supplychain/, Truy cập 30/10/2021

[10] ロックダウンでベトナムのサプライチェーンが脱中国依存の試金石に (Chuỗi cung ứng của Việt Nam trong giai đoạn lockdown thử thách kế hoạch giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc) , https://www.jetro.go.jp/biz/areareports/2021/1a48c17fcc681c7b.html , Truy cập 10/11/2021

 

 

Tin tức khác

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản tăng đáng kể lên 2.758,78 tỷ yên vào tháng 1 năm 2025 từ 1.766,54 tỷ yên cùng kỳ năm trước, vượt quá sự đồng thuận ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025

Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng vọt lên 130,94 tỷ yên vào tháng 12 năm 2024 từ 32,35 t ...

CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG

Các khoản vay tiêu dùng tăng vọt và tiền lương trì trệ dẫn đến khó khăn tài chính kỷ lục trong các hộ gia đình. Ngày càng nhiều người Nhật phải vật ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản giảm xuống còn 117,62 tỷ yên vào tháng 11 năm 2024 từ mức 813,87 yên cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức thâm hụt thươ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn