GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC Ở NHẬT BẢN

Đăng ngày: 5-02-2024, 09:52

1. Tổng quan kết quả giáo dục của Nhật Bản từ năm 2008 đến nay

Sau khi sửa đổi Đạo luật Cơ bản về Giáo dục, chính phủ Nhật Bản đã thiết lập Kế hoạch Cơ bản về Xúc tiến Giáo dục dựa trên Đạo luật nói trên và triển khai các hoạt động bằng các biện pháp định vị nhằm hiện thực hóa các mục tiêu và triết lý giáo dục một cách toàn diện và có hệ thống.

Theo Kế hoạch cơ bản đầu tiên về thúc đẩy giáo dục (quyết định của nội các ngày 1 tháng 7 năm 2008), hai điểm sau đây đã được xác lập là nền giáo dục lý tưởng trong thập kỷ kể từ năm 2008 và kế hoạch đã được thực hiện: (1) Trau dồi, về mọi mặt trẻ em, nền tảng cho sự độc lập trong xã hội khi các em hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc; và (2) Phát triển nguồn nhân lực có khả năng hỗ trợ và phát triển xã hội của chúng ta cũng như dẫn dắt xã hội quốc tế.

Ngoài ra, dựa trên kết quả xác nhận của Kế hoạch cơ bản về thúc đẩy giáo dục đã thực hiện từ năm 2008, kế hoạch cơ bản thứ hai cũng đã tiếp tục được triển khai theo quyết định của Nội các Nhật Bản vào năm 2013, với khẩu hiệu xây dựng một xã hội học tập suốt đời nhằm tạo ra một xã hội mới mô hình xã hội lấy Độc lập, Hợp tác, Sáng tạo làm cốt lõi, định hướng giáo dục xuyên suốt cuộc đời được xác lập và thực hiện.

Nhờ những hoạt động này, người ta nhận thấy rằng ở giai đoạn giáo dục tiểu học và trung học, trình độ năng lực học tập đã tăng lên, giúp Nhật Bản tiếp tục đứng đầu trong bảng xếp hạng của PISA (Chương trình đánh giá học sinh quốc tế của OECD) và TIMSS (Xu hướng nghiên cứu khoa học và toán học quốc tế) cùng năm 2025.

Ngoài ra, sự cải thiện còn được thể hiện trong việc học sinh dành nhiều thời gian cho học tập, sự gia tăng kế hoạch giảng dạy và hỗ trợ giáo dục cho học sinh khuyết tật.

Trong giáo dục đại học, các hoạt động hướng tới chuyển đổi chất lượng được nâng cao như: phát triển môi trường học tập độc lập của sinh viên, xây dựng và công bố ba chính sách giáo dục (chính sách cấp bằng, chính sách sửa đổi và thực hiện chương trình giáo dục (chính sách chương trình giảng dạy) và chính sách tiếp nhận sinh viên (chính sách tuyển sinh)), xây dựng một chính sách hệ thống chương trình giảng dạy ở các trường đại học, v.v. cũng như các hoạt động nhằm tăng cường hỗ trợ kinh tế cho sinh viên, chẳng hạn như tạo ra các khoản vay học bổng dựa trên thu nhập và hệ thống học bổng dạng trợ cấp, v.v. đang được triển khai.

2. Thực trạng và các vấn đề trong giáo dục Nhật Bản

Xã hội ngày nay là xã hội dựa trên tri thức, trong đó tri thức, thông tin và công nghệ mới rất quan trọng làm nền tảng cho các hoạt động trong mọi lĩnh vực của xã hội. Những thay đổi liên quan đến kiến ​​thức, thông tin và công nghệ này ngày càng nhanh như vũ bão. Ngoài ra, môi trường toàn cầu hóa và thông tin cụ thể gia tăng liên tục và phổ biến rộng rãi khiến việc ước tính chính xác những thay đổi xã hội trở nên khó khăn hơn.

Trong một vài năm nữa, người ta dự đoán rằng những điều sau đây sẽ xảy ra vào khoảng năm 2030: tiến bộ hơn nữa trong cải cách công nghệ và toàn cầu hóa, chẳng hạn như IoT (internet of Things), dữ liệu lớn và AI; sự thay đổi cơ cấu dân số; thành công hơn nữa của phụ nữ và người cao tuổi; và những thay đổi trong môi trường việc làm.

Vậy những vấn đề trong giáo dục Nhật Bản nảy sinh trong bối cảnh xã hội hiện nay là gì? Có thể bao quát trong một vài nội dung sau:

(1) Những thay đổi trong hoàn cảnh xã hội

Tỷ lệ sinh giảm và giá hóa dân số đáng lo ngại tại Nhật Bản

Dân số Nhật Bản đạt đỉnh điểm vào năm 2008 và sau đó có xu hướng giảm. Thế hệ trẻ ở độ tuổi 20 và 30 sẽ giảm khoảng 20% ​​vào năm 2030. Số người trên 65 tuổi sẽ chiếm trên 30% tổng dân số Nhật Bản. Người ta ước tính rằng dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm. Theo ước tính của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động sẽ thấp nhất trong các nước thành viên OECD. Ngoài ra, còn có báo cáo cho rằng những người trên 75 tuổi sẽ chiếm đa số và tuổi thọ của con người sẽ dài hơn hiện nay.

Tất cả số học sinh ở các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở Nhật Bản đều gặp tình trạng thiếu học sinh, thậm chí đóng cửa trong những năm gần đây. Theo kết quả khảo sát năm 2017, số lượng học sinh tiểu học và trung học cơ sở ở mức thấp nhất so với trước đây. Một số ước tính chỉ ra rằng dân số trong độ tuổi 18 chủ yếu theo học tại các cơ sở giáo dục đại học ở Nhật Bản sẽ ở mức dưới một triệu, xấp xỉ 980.000 lần đầu tiên vào năm 2032 so với dân số hiện tại là khoảng 1,2 triệu người; và sẽ giảm xuống còn khoảng 880.000 vào năm 2040.

Đổi mới công nghệ nhanh chóng khiến nhu cầu cải cách giáo dục trở nên bức thiết

Vào khoảng năm 2030, người ta ước tính rằng sẽ có một cuộc đổi mới công nghệ, còn được gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như IoT, dữ liệu lớn và AI, sẽ tiến bộ hơn nữa và tạo ra một Xã hội Siêu thông minh(Xã hội 5.0), điều này sẽ thay đổi mạnh mẽ xã hội và cuộc sống của chúng ta. Có một báo cáo cho rằng tốc độ từ nghiên cứu, phát triển và thương mại hóa cho đến phổ biến cũng đang tăng nhanh. Một báo cáo khác cho rằng tình trạng kiến ​​thức và ý tưởng mới lần lượt được tạo ra sẽ thúc đẩy mạnh mẽ khả năng cạnh tranh của các tổ chức và các nước, trong đó Nhật Bản đi sau Mỹ, Đức và các nước khác trong việc ứng phó với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việc tăng tốc các hoạt động cải cách giáo dục là vấn đề lớn hiện nay.

Tiến trình toàn cầu hóa và hạ thấp vị thế quốc tế

Toàn cầu hóa đang tăng tốc ở nhiều nơi và môi trường sống của người dân cũng ngày càng được mở rộng nhờ cuộc cách mạng công nghệ trong lĩnh vực thông tin, truyền thông và vận tải. Thêm vào đó, mức độ ảnh hưởng và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng gia tăng nhanh chóng. Hơn nữa, hiện nay các vấn đề toàn cầu chung của nhân loại ngày càng gia tăng như nghèo đói, xung đột, bệnh truyền nhiễm, vấn đề môi trường, vấn đề tài nguyên năng lượng, v.v.. Trong bối cnảh đó, Nhật Bản buộc phải chủ động giải quyết các vấn đề giáo dục dựa trên nền tảng công nghệ thông tin.

Các nền kinh tế ở các nước mới nổi, trong đó có Châu Á, đang phát triển nhanh chóng và sự hiện diện trong xã hội quốc tế ngày càng tăng. Người ta cho rằng không chỉ châu Âu và Mỹ, mà cả châu Á cũng sẽ có vai trò trung tâm trong nền kinh tế thế giới. Tỷ trọng của Nhật Bản trong GDP thế giới có xu hướng giảm. Tỷ lệ phần trăm của Nhật Bản vào năm 2030 được ước tính sẽ giảm thêm. Các mối quan hệ trong nhiều lĩnh vực trong xã hội đã được kích hoạt xuyên biên giới. Cạnh tranh toàn cầu được ước tính sẽ ngày càng gay gắt, như thanh lý nguồn nhân lực, cạnh tranh trong việc đảm bảo nguồn nhân lực, v.v.

Các vấn đề kinh tế xã hội, như tình trạng trẻ em nghèo

Đối với tình trạng trẻ em nghèo là một vấn đề lớn tại Nhật Bản. Tỷ lệ tuyển sinh toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học, kể cả cao đẳng đào tạo chuyên nghiệp... đạt xấp xỉ 80%. Có một nghiên cứu chỉ ra rằng tình trạng kinh tế-xã hội của một hộ gia đình (chẳng hạn như thu nhập hộ gia đình, trình độ học vấn của cha mẹ, v.v.) đã làm ảnh hưởng đến khả năng học tập của trẻ em cũng như tỷ lệ nhập học tại các trường đại học 4 năm.

Các vấn đề cộng đồng, chẳng hạn như sự chênh lệch giữa các khu vực

Tỷ lệ tuyển sinh vào các trường đại học có xu hướng cao ở khu vực thành thị và thấp ở các khu vực nông thôn, chẳng hạn như tỷ lệ nhập học vào các trường đại học của sinh viên mới tốt nghiệp trung học phổ thông, v.v. ở Tokyo và tỉnh Kagoshima có sự khác biệt. Tình hình liên quan đến giáo dục đại học cũng khác nhau tùy theo khu vực.

(2) Những thay đổi về tình hình giáo dục

Các vấn đề về Trẻ em và Thanh thiếu niên

Liên quan đến sự phát triển của trẻ nhỏ, các báo cáo đưa ra cho thấy trẻ em thiếu kỹ năng cơ bản về kinh nghiệm sống hàng ngày bởi sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội.

Tuy nhiên, nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục mầm non ngày càng tăng trong những năm gần đây dựa trên kết quả nghiên cứu quốc tế.

Liên quan đến kết quả học tập của học sinh tiểu học và trung học cơ sở, kết quả khảo sát cho thấy năng lực học tập trong và ngoài Nhật Bản có xu hướng cải thiện trong những năm gần đây và số giờ học cũng có xu hướng tăng lên. Ngoài ra, theo khảo sát của Văn phòng Nội các Nhật Bản, hơn 90% học sinh cảm thấy hài lòng với cuộc sống học đường của mình và 80% phụ huynh hoàn toàn hài lòng với trường học .

Liên quan đến thời gian sinh viên đại học dành cho việc học, các khảo sát cho thấy chưa có nhiều điều chỉnh so với trước đây.

Đối với hoàn cảnh xung quanh trẻ em, cùng với việc phổ biến các thiết bị kết nối internet như điện thoại thông minh, thời gian sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) có xu hướng tăng, trong khi tỷ lệ học sinh sử dụng máy tính trong lớp ở mức thấp nhất trong số các nước thành viên OECD.

Ngoài ra, báo cáo cho thấy tin học hóa đang tiến bộ và việc tìm kiếm thông tin đa dạng trong nhiều lĩnh vực trở nên dễ dàng hơn; đồng thời, cũng nảy sinh các vấn đề liên quan đến việc hiểu đúng cấu trúc và chi tiết của văn bản, ý nghĩa của thông tin. Hơn nữa, có một số trường hợp đe dọa đến sự an toàn của trẻ em khi mà vô ý liên quan đến tổ chức tội phạm sử dụng Dịch vụ Mạng xã hội (SNS).

Cơ hội để trẻ em có thể bồi dưỡng bản thân thông qua trải nghiệm phong phú về thiên nhiên hoặc trải nghiệm về văn hóa, nghệ thuật còn hạn chế .

Về thể lực của trẻ em, theo Khảo sát thể lực và thành tích thể thao những năm gần đây, thể lực tổng thể có xu hướng tăng dần; tuy nhiên, có thông tin cho rằng khi so sánh trình độ hiện tại với trình độ năm 1985, thể lực hiện tại vẫn ở mức thấp và xuất hiện xu hướng lưỡng cực ở trẻ em tập thể dục và một số trẻ không tập thể dục.

Liên quan đến sức khỏe và sự an toàn của trẻ em, môi trường xung quanh trẻ em đang thay đổi mạnh mẽ, bao gồm các vấn đề sức khỏe đa dạng chẳng hạn như rối loạn thói quen ăn uống, trong đó tỷ lệ học sinh tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông không ăn sáng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, khi mà các thông tin liên quan về tình dục, ma túy, v.v. được các em tìm kiếm dễ dàng hơn đã làm nảy sinh các vấn đề an toàn mới như an ninh mạng, tội phạm v.v..

Một số vấn đề như bạo lực học đường, học sinh bỏ học, bắt nạt vẫn tiếp tục xảy ra và còn tăng lên đáng kể.

Liên quan đến giáo dục cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trên cơ sở phê chuẩn Công ước về Quyền của Người khuyết tật và thực thi Đạo luật Xóa bỏ Phân biệt đối xử đối với Người khuyết tật, trường học dành cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được xác định từ góc độ toàn diện dựa trên ý định của trẻ em và cha mẹ chúng để trẻ em gặp khó khăn có thể nhận được nền giáo dục dựa trên nhu cầu giáo dục cá nhân đồng thời nhận được sự quan tâm hợp lý. Trong những năm gần đây, số lượng trẻ em gặp khó khăn, trong đó có trẻ khuyết tật phát triển đang học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, v.v., ngày càng tăng.

Cả số lượng trẻ em người nước ngoài và trẻ em có cha hoặc mẹ là người nước ngoài đều có xu hướng tăng và việc ứng phó với sự đa dạng hóa ngôn ngữ quốc gia cũng như sự khác biệt về trình độ tiếng Nhật là hết sức cần thiết.

Những thay đổi về điều kiện gia đình

Nhìn vào điều kiện gia đình, tỷ lệ gia đình ba thế hệ đã giảm và tỷ lệ gia đình cha mẹ đơn thân có xu hướng tăng lên. Điều quan trọng là toàn xã hội phải giải quyết các vấn đề liên quan đến giáo dục, chẳng hạn như tính xã hội và tính độc lập của trẻ em cũng như hỗ trợ cho sự phát triển của gia đình vì giáo dục tại nhà là khởi đầu của mọi nền giáo dục; tuy nhiên, một vấn đề đã được báo cáo là dạy học tại nhà trong khi nhiều gia đình gặp khó khăn và lo lắng về việc chăm sóc con cái, nhưng không có ai xung quanh họ để tư vấn liên quan đến những thay đổi trong cơ cấu gia đình và những thay đổi trong cộng đồng.

Trách nhiệm của giáo viên

Có thông tin cho rằng vai trò của trường học ngày càng tăng và trách nhiệm của giáo viên cũng ngày càng tăng. Theo khảo sát của OECD, giờ học của giáo viên trung học cơ sở ở Nhật Bản thấp hơn mức trung bình của các nước tham gia khảo sát; tuy nhiên, giờ làm việc của họ cao hơn mức trung bình.

Dựa trên kết quả khảo sát nêu trên, khó có thể duy trì và phát triển chất lượng giáo dục trường học theo hệ thống tổ chức trường học dựa trên vai trò của người thầy tận tâm.

Những thay đổi về hoàn cảnh xung quanh các trường trung học phổ thông và những vấn đề của học sinh

Mặc dù tỷ lệ sinh giảm nhưng tỷ lệ nhập học ở độ tuổi 18 lại tăng lên và do đó số lượng sinh viên theo học các chương trình cử nhân tại các trường đại học ngày càng tăng. Tỷ lệ tuyển sinh vào các chương trình cử nhân tại các trường đại học tăng 50% và tỷ lệ tuyển sinh vào các cơ sở giáo dục đại học nói chung, bao gồm cả cao đẳng đào tạo chuyên nghiệp, đều vượt 80%. Tỷ lệ nhập học tăng lên và số lượng sinh viên vào các cơ sở giáo dục đại học ngày càng đa dạng.

Như đã đề cập ở trên, trước những vấn đề như thời gian học tập của sinh viên đại học còn ngắn..., cần phải triển khai các hoạt động tại mỗi trường đại học để đảm bảo chất lượng giáo dục đại học. Điều quan trọng là phải đạt được những cải cách nhất quán trong giáo dục tiểu học, trung học và giáo dục đại học bằng cách thực hiện đồng bộ cải cách giáo dục đại học nói trên cùng với cải cách giáo dục trung học phổ thông và cải cách thi tuyển sinh đại học.

Ngoài ra, ước tính dân số 18 tuổi sẽ giảm mạnh và điều này sẽ ảnh hưởng đến quy mô giáo dục đại học nói chung trong tương lai. Đặc biệt, vì có nhiều trường đại học quy mô nhỏ ở các địa phương nên việc đảm bảo cơ hội học tập ở bậc đại học có thể trở nên khó khăn. Vì lý do này, việc giải quyết vấn đề cải cách hệ thống giáo dục đại học theo hướng tăng cường nền tảng giáo dục và nghiên cứu, chẳng hạn như tăng cường khả năng quản lý, v.v., là điều cấp thiết, đồng thời cần xem xét cấu trúc lý tưởng của giáo dục đại học trong tương lai.

Hơn nữa, trong bối cảnh tình trạng thanh lý nguồn nhân lực ngày càng gia tăng do toàn cầu hóa và sự cạnh tranh để đảm bảo nguồn nhân lực ngày càng gay gắt, cần phải nâng cao danh tiếng quốc tế của các cơ sở giáo dục đại học ở Nhật Bản, để quốc tế hóa giáo dục và môi trường nghiên cứu, và thực hiện trao đổi tương tác của sinh viên.

Người ta ước tính rằng cơ cấu thị trường lao động và việc làm có thể được thay đổi căn bản trong Xã hội Siêu thông minh (Xã hội 5.0). Tầm quan trọng của việc người đi làm đi học lại ngày càng tăng từ góc độ cá nhân và góc độ tăng năng suất lao động cũng như đáp ứng nhu cầu nhân lực của toàn xã hội, v.v. Ngành công nghiệp mong đợi nền giáo dục nghề nghiệp tiên tiến, thiết thực và sáng tạo cũng như tăng cường bồi dưỡng nhân lực nguồn lực cần thiết cho các lĩnh vực đang phát triển, v.v. Điều quan trọng là tất cả các cơ sở giáo dục đại học phải tăng cường chức năng để đáp ứng mong đợi. Đặc biệt, trong bối cảnh cần phải bồi dưỡng nguồn nhân lực dựa trên công nghệ thông tin... tạo điều kiện cho cải cách cơ cấu công nghiệp, bao gồm AI, IoT, dữ liệu lớn, v.v., như tạo ra một ngành công nghiệp mới, thì tầm quan trọng và nhu cầu giáo dục toán học và khoa học dữ liệu ngày càng tăng trên các lĩnh vực công nghiệp.

Ngoài ra, trong Xã hội Siêu thông minh (Xã hội 5.0), tầm quan trọng của việc bồi dưỡng các chuyên gia tri thức là nguồn nhân lực có chuyên môn cao và những người ứng phó với thách thức bằng khả năng tri thức của mình và đóng góp cho xã hội loài người ngày càng tăng. Cải cách giáo dục ở các trường sau đại học là cần thiết để bồi dưỡng nguồn nhân lực có thể tạo ra công nghệ thông tin tiên tiến và sử dụng công nghệ thông tin và nguồn nhân lực một cách thiết thực, v.v. .

(3) Chính sách quốc tế về giáo dục

Các hoạt động liên quan đến giáo dục tầm nhìn đến năm 2030 đang được triển khai trên phạm vi quốc tế. Hướng tới đạt được các mục tiêu giáo dục(SDG4) được đặt ra trong Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững, là mục tiêu quốc tế từ năm 2016 đến năm 2030 được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc thông qua vào tháng 9 năm 2015( UNESCO), chính phủ các nước thành viên, các tổ chức phi chính phủ, v.v. đã thông qua Khung hành động Giáo dục 2030 và quyết tâm thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục.

Ngoài ra, OECD thực hiện Giáo dục 2030 trong đó xem xét kiến ​​thức, kỹ năng, thái độ và giá trị một cách tổng thể, xem xét các năng lực cần có của thời đại sắp tới và từ đó phát triển một mô hình giáo dục mới tương ứng với những thay đổi của thời đại. Tại Nhật Bản, chúng tôi cũng bắt đầu các hoạt động hướng tới phát triển mô hình để chia sẻ với OECD và các quốc gia khác liên quan đến kết quả của Trường học đổi mới phục hồi cộng đồng địa phương năm 2030, nơi học sinh khám phá các vấn đề khu vực từ góc độ toàn cầu thông qua hợp tác với sinh viên ở các quốc gia khác, v.v. .

Theo đánh giá chính sách giáo dục của Nhật Bản bởi OECD, kết quả học tập của học sinh tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông cũng như người lớn ở Nhật Bản thuộc loại cao nhất trong số các nước thành viên OECD, và báo cáo yếu tố thành công của giáo dục Nhật Bản là nhờ cung cấp giáo dục toàn diện cho trẻ em trên phạm vi rộng, bao gồm bữa trưa ở trường và các hoạt động ngoại khóa. Ngoài ra, một trong những phương pháp để phát triển kinh tế và giảm nghèo là điều quan trọng, cần đầu tư vào thanh niên và người trưởng thành để bồi dưỡng lực lượng lao động cho xã hội trong thế kỷ 21.

Ngoài ra, báo cáo đánh giá chính sách giáo dục của Nhật Bản của OECD cho thấy tầm quan trọng của việc học tập suốt đời đã được công nhận ở Nhật Bản; tuy nhiên, cần tạo điều kiện cho những người lao động có thời gian hạn chế theo học tại các trường đại học, cao đẳng chuyên ngành có thể đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và hỗ trợ tái tạo việc làm cho những người thất nghiệp hoặc những người không chủ động tìm kiếm việc làm. Cũng có báo cáo cho rằng hỗ trợ tài chính cho giáo dục mầm non và giáo dục đại học còn hạn chế và áp lực tài chính đặt lên gia đình rất lớn làm hạn chế cơ hội học tập của phụ nữ và trẻ em ở các tầng lớp kinh tế xã hội thấp hơn.

 

Nguyễn Thị Ngọc Anh

Trung Tâm Nghiên cứu Nhật Bản

 

Lược dịch từ:

https://www.mext.go.jp/en/policy/education/lawandplan/title01/detail01/sdetail01/1373818.html

Tin tức khác

CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN
CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN

Ngày 12/12, Hiệp hội Kiểm tra năng lực chữ Hán (Kanji) của Nhật Bản đã chính thức công bố chữ Hán của năm 2024 là "Kim" (金). Đây là lần thứ năm t ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Tuy nhiên, vấn đề này không đơn giản. Về các “giả thuyết” mà Higashino đã đề cập ở trên, nghiên cứu tiếp theo của của Takayuki Tanaka trong cuốn “U ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Điểm mấu chốt ở đây là bối cảnh các chuyến viếng thăm của các tăng sư như Phật Triết. Tại đây có câu chuyện lịch sử thú vị liên quan đến các sứ thầ ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Cách thời điểm kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam đúng 10 năm, vào mùa hè (từ ngày 7/7 đến 22/9) năm 2013, nhân kỷ niệm 40 năm t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn