GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

NHẬT BẢN TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ MẠNG TƯỚI AN TOÀN VÀ TRỢ CẤP VIỆC LÀM SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

Đăng ngày: 3-03-2012, 15:23

Khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ nước Mỹ đã tác động hầu như ngay lập tức tới mọi nền kinh tế, làm cho kinh tế toàn cầu cũng như điều kiện tuyển dụng lao động ở các nước xấu đi nhanh chóng. Nhật Bản không tránh khỏi ảnh hưởng này, và hậu quả là số lượng tương đối lớn việc làm bị mất đi trong số các lao động không chính thức - lực lượng lao động mà số lượng tăng lên nhanh chóng trong thập kỷ vừa qua.

Ước tính của Bộ y tế, lao động và phúc lợi cho thấy hơn 200.000 lao động không chính thức bị mất việc từ tháng 10/2008 đến tháng 6/2009. Những thống kê cụ thể về hình thức việc làm cho thấy lao động được phái cử chiếm đông nhất với hơn 130.000 lao động, tiếp theo đó là con số hơn 40.000 lao động có hợp động xác định và hợp đồng khác. Suy thoái đã ảnh hưởng trực tiếp tới các ngành công nghiệp xuất khẩu như ô tô, chế tạo điện tử và bán dẫn, những ngành vốn là trụ cột của kinh tế Nhật Bản. Hiện đang nảy sinh một cách rõ nét trên các phương tiện truyền thông về vấn đề thất nghiệp của các đơn vị có lao động thời vụ, ví dụ như ngừng tiếp nhận tu nghiệp sinh (Hakengiri) và không tuyển dụng mới nhân sự (Yatoidome). Chính phủ đã cấp khoản ngân sách khoảng 2.000 tỉ yên để giải quyết việc làm trong ba năm tới cùng với việc dự kiến cung cấp hỗ trợ cơ bản việc làm cho 1,6 triệu lao động.
Một vấn đề quan trọng của chính sách là mở rộng độ an toàn của mạng lưới tuyển dụng mà sự yếu kém của nó là rõ ràng, bởi sự tăng lên nhanh chóng số lượng người thất nghiệp. Hệ thống bảo hiểm việc làm hiện nay đòi hỏi mọi người phải dự kiến có công việc tối thiểu là một năm thì mới được tham gia hệ thống này (không tính tới số lao động được phái cử). Hệ thống đã được chỉnh sửa để giảm tiêu chuẩn đăng ký cho lao động không chính thức, những người được dự kiến có việc làm 6 tháng trở lên tính từ 31/3/2009. Đồng thời, yêu cầu về “lao động đóng bảo hiểm toàn bộ cho tối thiểu 12 tháng trong 2 năm khi bị thất nghiệp để nhận được quyền lợi bảo hiểm thất nghiệp” đã được thay đổi là “tối thiểu là 6 tháng ngay trong năm bị thất nghiệp”. Trong trường hợp gặp khó khăn khi tìm kiếm công việc khác, thời gian hưởng quyền lợi sẽ được kéo dài thêm 60 ngày với những điều kiện nhất định. Đối với lao động không chính thức, những người không nằm trong hệ thống bảo hiểm việc làm vừa được sửa đổi và những người thất nghiệp lâu năm quá thời hạn cho phép, một quỹ sẽ được thành lập để trả chi phí sinh hoạt cho họ, chừng nào họ vẫn đang được đào tạo chuyên môn.
Một vấn đề không thể không nhắc đến là mở rộng trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp điều chỉnh việc làm (trợ cấp ổn định việc làm khẩn cấp của doanh nghiệp vừa và nhỏ) là khoản trợ cấp được chi bởi Chính phủ trung ương cho các công ty phải thu hẹp quy mô do suy thoái hoặc do các nhân tố khác nhưng vẫn duy trì chỗ làm cho người lao động bằng cách cho họ nghỉ phép, hay được đi đào tạo, huấn luyện và luân chuyển tạm thời. Hình thức này được thực hiện từ năm 1975, dựa trên chương trình trợ cấp Kurzarbeit (Đức) và đến nay vẫn tiếp tục được triển khai. Tuy nhiên, tiêu chuẩn điều kiện được nới lỏng vào tháng 12/2008, và sau đó được nới lỏng hơn nữa về nội dung. Thời gian tối đa mà các công ty được nhận trợ cấp tăng từ 200 ngày trong 1 năm lên 300 ngày trong 3 năm và tỉ lệ trợ cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng từ 2/3 lên 4/5 của chi phí lương. Trợ cấp dành cho kinh phí giáo dục và huấn luyện cũng tăng từ 1.200 yên lên 6.000 yên.
Với những nỗ lực nhằm đưa ra các biện pháp hữu hiệu khắc phục tình trạng thất nghiệp trên thị trường lao động, Nhật Bản hi vọng tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, từng bước ổn định xã hội sau khủng hoảng tài chính 2008 – 2009.
Nguồn: Labor Situation in Japan and Analysis: General Overview 2009/2010. http://www.jil.go.jp/english/lsj.html
Người dịch: Phan Cao Nhật Anh, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
Đăng Website Nghiên cứu Nhật Bản ngày: 26-9-2010.



Nguồn tin
Labor Situation in Japan and Analysis: General Overview 2009/2010.
Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn