GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Xu hướng người lao động gốc Nhật sống tách biệt với người dân Nhật Bản

Đăng ngày: 1-11-2012, 21:33

Ở Nhật Bản hiện nay, có một số lượng lớn người lao động nước ngoài gốc Nhật phân biệt với người lao động nước ngoài thông thường đang làm việc. Người lao động gốc Nhật là những người Nhật Bản di trú ra nước ngoài sinh sống, có quyền vĩnh trú ở nước đó (hoặc là con cháu của họ) nay quay trở lại làm việc tại Nhật Bản. Sự xuất hiện của họ gắn liền với qúa trình di cư của người dân Nhật Bản diễn ra từ thế kỷ 19. Theo sử sách, cuộc di cư đầu tiên diễn ra vào năm 1868 khi 153 người Nhật Bản đã vượt biển, cập bến đảo Hawai và chính phủ Minh Trị thời đó coi đây là chuyến đi bất hợp pháp[1]. Những số liệu thống kê cho thấy Brazil là nước có số lượng người Nhật di cư đến đông nhất. Năm 1908, nhóm người Nhật đầu tiên di cư đến Brazil gồm 781 người (158 gia đình và 10 người nhập cư khác) đã lên con tàu Kasato Maru rời cảng Kobe đến cảng Santos. Cho đến nay, ước tính có khoảng 1.500.000 người gốc Nhật đang sinh sống tại Brazil[2]. Nguyên nhân của các cuộc di cư khi đó là do tình trạng kinh tế bất ổn, nhiều người Nhật Bản không thấy triển vọng trong công việc kiếm sống ở quê nhà và đã quyết định tìm kiếm tương lai ở các nước vùng Mỹ La-tinh.

Những con số thống kê cho thấy số người nước ngoài gốc Nhật cư trú tại Nhật Bản tăng lên nhanh chóng: năm 1991, số người có chế độ cư trú là thường trú dài hạn chỉ có 54.359 người, năm 2006 đã lên đến 268.836 người. Năm 2007 và 2008, con số này có xu hướng giảm xuống nhưng không đáng kể (258.498 người vào năm 2008), cho dù đây được coi là thời điểm kinh tế tương đối khó khăn của Nhật Bản trong giai đoạn đầu thế kỷ 21. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự xuất hiện của lao động người nước ngoài thường tạo ra một nhóm cư dân thiểu số vào kéo theo những vấn đề xã hội buộc chính phủ phải quan tâm[3]. Người lao động gốc Nhật cũng không phải là ngoại lệ, và những vấn đề phát sinh cũng không phải do bản tính của người gốc Nhật. Kể từ khi sang Nhật, phần lớn họ có xu hướng cách ly khỏi người Nhật bản xứ. Người gốc Nhật thường sống tập trung trong ký túc công ty hay trong các căn hộ do công ty thuê cho họ, hơn nữa số lượng người gốc Nhật tại Nhật Bản khá đông, đủ để tự họ làm nên một cộng đồng riêng. Chính vì vậy mức độ cần thiết phải nói tiếng Nhật không cao và họ cũng không mấy khi tiếp xúc với người Nhật. Xu hướng này không chỉ nhận thấy ở khu vực người gốc Nhật sinh sống mà còn ở cả nơi họ làm việc. Nhiều trường hợp họ làm việc theo một đơn vị đoàn thể, thông qua một trưởng nhóm có thể hiểu tiếng Nhật, do vậy cơ hội tiếp xúc với các lao động người Nhật bản xứ không nhều.

Tuy nhiên, cũng không hẳn là người gốc Nhật và người Nhật bản xứ hoàn toàn không tiếp xúc gì với nhau. Ví dụ, thông qua các đoàn thể quần chúng hay hoạt động tình nguyện, người ta thấy có sự giao lưu sôi nổi giữa người gốc Nhật và người Nhật bản xứ trong các giải bóng đá, lễ hội samba,…Ngoài ra, do người gốc Nhật bắt đầu sinh sống tại Nhật theo đơn vị gia đình, con cái của họ đi học tại các trường tiểu học và trung học, việc giáo dục con cái là cầu nối để họ giao lưu với các gia đình người Nhật khác. Mối quan hệ giữa người gốc Nhật và người Nhật bản xứ thể hiện không chỉ trong lĩnh vực đời sống hay công việc mà còn gắn bó chặt chẽ hơn trong lĩnh vực giáo dục.

Ngoài ra, khi suy nghĩ về tính cách của người gốc Nhật và người Nhật bản xứ,  có thể thấy một đặc điểm khá thú vị. Đó là đặc trưng trong quan hệ cộng đồng của người gốc Nhật và người Nhật bản xứ. Nói đến người lao động nước ngoài và dân di cư, có rất nhiều trường hợp di cư theo gia đình hay quan hệ họ hàng. Về mặt hình thức, trường hợp người gốc Nhật cũng vậy, họ được công nhận cư trú và làm việc tại Nhật Bản với một số lý do như “thăm người thân’’. Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp chỉ lấy cớ là sang Nhật với mục đích “thăm người thân” trong khi mối quan hệ họ hàng thân thích của họ với người Nhật quá mờ nhạt. Thực tế, họ được chọn thông qua các nhà tuyển dụng lao động tại Nam Mỹ và Nhật Bản, hoặc được các công ty Nhật Bản trực tiếp tuyển dụng tại địa phương. Có thể nhận định sự gia tăng nhanh chóng số lượng người gốc Nhật là do việc tuyển dụng dựa trên mối quan hệ huyết thống gia đình và họ hàng được cường điệu hóa, trong khi trên thực tế mạng lưới huyết thống gia đình, dòng tộc rất mờ nhạt.

Ngày nay, các thương gia Nhật Bản sống tại nước ngoài đều có thể đọc các ấn phẩm của Nhật Bản mỗi ngày, người Nhật ở một số nước còn xem ti vi của Nhật qua truyền hình vệ tinh hay cho con em họ đi học tại các trường dành riêng cho người Nhật. Như vậy, cho dù sống ở nước ngoài nhưng họ vẫn có thể hưởng thụ cuộc sống như đang ở Nhật Bản. Tương tự như vậy trong trường hợp của người gốc Nhật, do có một khoảng cách nhất định với người Nhật, nên tồn tại những cộng đồng, những quán ăn hay vật dụng Brazil dành riêng cho người gốc Nhật. Trong những cộng đồng này, cho dù không biết tiếng Nhật cũng có thể sinh hoạt thoải mái. Đơn cử như ở tỉnh Aichi, có những khu dân cư mà một nửa là người Brazil gốc Nhật. Thậm chí, có những cửa hàng, siêu thị, quán ăn mà từ ông chủ, nhân viên bán hàng đến những người mua đều là người Brazil gốc Nhật[4].

Hơn nữa, ở các nước tiên tiến, “chủ nghĩa đa văn hóa” hay “chủ nghĩa văn hóa đa nguyên” đang dần được công nhận, đồng thời sức mạnh của “chủ nghĩa đồng hóa” bị thất bại. Chính vì vậy người lao động ngoại quốc không cần thiết phải đồng hóa vào xã hội tiếp nhận họ như trước nữa. Đặc biệt, xu hướng giữ nguyên lối sống của người Brazil thể hiện rất rõ ràng ở nhóm người đi lao động nước ngoài với mục đích trải nghiệm và hưởng thụ, thường là thuộc các thế hệ thứ ba, thứ tư của người gốc Nhật. So với người gốc Nhật các thế hệ thứ nhất và thứ hai thì xu hướng hưởng thụ cuộc sống tại Nhật Bản của các thế hệ thứ ba, thứ tư mạnh mẽ hơn. Họ không nhất thiết phải gửi tiền về để lo cuộc sống nên hầu hết những người thuộc thế hệ thứ ba này có xu hướng rời các khu phố công nghiệp lên các thành phố lớn như Tokyo. Vì không có mục đích rõ ràng, không có sự cố gắng để hoà mình vào với xã hội nên càng ngày họ càng khó thích nghi.

Có thể nói sự xuất hiện người lao động gốc Nhật tạo ra nhóm thiểu số tách biệt với người Nhật bản xứ hay còn gọi là kiểu sống phân li. Đây là vấn đề mà chính phủ Nhật Bản buộc phải lưu ý để đưa ra những chính sách xã hội thích hợp với người  lao động gốc Nhật hiện nay.

 

 

Nguồn: Tổng hợp từ nhiều tài liệu

Phan Cao Nhật Anh, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á



[1] 日系人、http://ja.wikipedia.org/wiki/%E6%97%A5%E7%B3%BB%E4%BA%BA

[2] Website Bộ ngoại giao Nhật Bản. http://www.mofa.go.jp/region/latin/brazil/index.html

[3] Nguyễn Bình Giang. Di chuyển lao động quốc tế, trang 100

[4] 安田浩一、ルポ差別と貧困の外国人労働者, trang 188.

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn