GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Khác biệt giữa lao động chính thức và không chính thức tại Nhật Bản

Đăng ngày: 11-12-2012, 14:13

Người ta nhận thấy rằng tại Nhật Bản hiện nay, sự gia tăng số lao động không chính thức và sự khác biệt về lương so với lao động chính thức ngày càng lớn. Các hoạt động cắt giảm chi phí cố định của các công ty cùng với những thay đổi trong quan niệm của người lao động là các nhân tố khiến tỉ lệ số nhân viên không chính thức chiếm tới hơn 30% tổng số lao động. Một vấn đề đặt ra ở đây là sự giảm đột ngột tỉ lệ lao động trẻ trong số lao động chính thức kể từ giữa những năm 1990. Rất nhiều người không thể tìm công việc chính thức trong suốt thời kỳ “tuyển dụng bị đóng băng” và trong giai đoạn suy thoái trở thành lao động không chính thức hoặc không có việc làm. Ngoài ra, số “lao động tự do” (những lao động bán thời gian) đã giảm 4 năm liên tục cho đến năm 2003 nhưng hiện vẫn ở mức cao.

Thực trạng này làm nảy sinh nhiều vấn đề đáng quan tâm. Những người lao động không chính thức luôn gặp bất lợi trong cuộc sống hàng ngày do thu nhập và chế độ đãi ngộ không đảm bảo. Bên cạnh đó, có nhiều quan ngại rằng số lượng lao động này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ lệ sinh đẻ do họ thường kết hôn muộn hoặc là không kết hôn. Những người này có ít cơ hội được giáo dục và đào tạo, làm gia tăng khoảng cách về kĩ năng nghề nghiệp giữa lao động chính thức với lao động không chính thức. Điều này phần nào lý giải sự chênh lệch mức lương giữa những lao động trẻ, và thực tế này không những khó có thể thay đổi mà sẽ tiếp tục gia tăng hơn nữa. Một hệ quả của việc gia tăng lao động không chính thức là sự nảy sinh vấn đề “lao động nghèo” (những người có mức thu nhập thấp dưới 1,5 triệu yên một năm) mà theo ước tính hiện chiếm không dưới 20% số lao động đang làm việc.

Về những lao động chính thức, khi các công ty cắt giảm lực lượng lao động chính thức, nhiều người trong số họ tự cho rằng họ phải làm việc với thời gian nhiều hơn. Một ví dụ cụ thể là khoảng 20% lao động nam lứa tuổi 30 làm việc 60 giờ một tuần hoặc hơn thế. Đàn ông Nhật Bản dành thời gian cho việc nhà và con cái ít hơn so với đàn ông có công việc tương tự ở Bắc Mỹ và Châu Âu, và do đó sẽ đặt nhiều gánh nặng hơn cho các bà vợ của họ. Đối với phụ nữ, nếu muốn trở thành lao động chính thức đồng nghĩa với việc phải lựa chọn giữa  công việc hoặc nghỉ việc để kết hôn và sinh con. Đây cũng chính là nguyên nhân  góp phần làm giảm tỉ lệ sinh ở Nhật Bản hiện nay. Ngoài ra, vấn đề này còn liên quan đến sức khỏe tinh thần, thậm chí có thể dẫn tới tử vong do quá trình làm việc quá sức.

Hiện nay, tại Nhật Bản số giờ thực tế làm việc bình quân hàng năm trên mỗi lao động đang giảm xuống, nhưng những con số cụ thể cho thấy số giờ lao động  trong nhóm lao động bán thời gian (phần đông trong số họ là lao động không chính thức) có xu hướng tăng. Còn trong nhóm lao động chính thức, thời gian làm việc không có dấu hiệu giảm một cách rõ rệt. Thay vào đó, thời gian làm việc phân chia đa dạng hơn tuỳ theo từng nhóm lao động.

Lao động chính thức có được sự bảo đảm vững chắc về chỗ làm và họ phải tuân theo mong muốn của chủ lao động như thời gian làm việc, kỷ luật công ty. Ngược lại, lao động không chính thức có ít ràng buộc hơn về làm thêm ngoài giờ,v.v. nhưng thiếu sự bảo đảm, ổn định trong công việc. Sự tồn tại của rào cản rõ rệt như vậy giữa lao động chính thức và không chính thức làm nảy sinh các chỉ trích gay gắt rằng các rào cản này ngăn cản sự đa dạng các nguồn lực lao động như phụ nữ, người già, thanh niên trong việc thể hiện năng lực và hạn chế sử dụng nhân lực. Ưu tiên hàng đầu là thiết lập cơ chế đảm bảo sự liên tục của chế độ đãi ngộ và sự chuyển đổi giữa lao động chính thức và lao động không chính thức để người lao động không phải chọn lựa giữa ổn định công việc và sự ràng buộc.

PT.

Tổng hợp từ nhiều nguồn tin và  tài liệu

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn