GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

RÀO CẢN NGÔN NGỮ ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở NHẬT BẢN

Đăng ngày: 17-03-2013, 16:40

RÀO CẢN NGÔN NGỮ ĐỐI VỚI

LAO ĐỘNG NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở NHẬT BẢN

Điều quan trọng đối với một người khi sinh sống và làm việc tại một đất nước khác là phải hiểu được ngôn ngữ của đất nước đó. Càng hiểu và sử dụng tốt ngôn ngữ bản xứ, cơ hội kiếm tìm việc làm của họ càng rộng mở. Tại các quốc gia phát triển, người lao động nước ngoài trong thời gian đầu được phân làm tại những bộ phận công việc chân tay đơn giản khi khả năng giao tiếp còn hạn chế. Những công việc chân tay kiểu này có lượng cầu lao động khá cao, song vấn đề phát sinh chính là khả năng phát triển của người lao động. Để đi từ dạng lao động giản đơn đến lao động phức tạp, hay để chọn lựa được nghề nghiệp một cách đa dạng thì khả năng sử dụng ngoại ngữ nước bản xứ trở thành điều tối cần thiết.

Đối với trường hợp Nhật Bản, lao động người nước ngoài gặp trở ngại lớn hơn nhiều do tiếng Nhật rất khó. Có thể tham khảo về mức độ khó dễ của việc học ngoại ngữ tiếng Nhật từ một khái niệm có tên "Khoảng cách giữa các ngôn ngữ" trong cuốn "Du học Nhật Bản" (日本留学) của tác giả Ezoe Takahide. Tác giả Ezoe từ kinh nghiệm dạy tiếng Nhật cho người nước ngoài của mình đã giải thích rằng học một ngoại ngữ khó hay dễ tuỳ thuộc vào khoảng cách giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với ngôn ngữ đó. Theo ông, nội dung cơ bản của việc đào tạo một ngoại ngữ là từ vựng, thứ tự sắp xếp từ, ngữ pháp, ý nghĩa, chữ viết, phát âm, dựa trên những nét giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ là ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ ngoại lai. Từ đó, ông cho ra đời định nghĩa về “Khoảng cách ngôn ngữ”, (tham khảo sơ đồ dưới đây).

 

 


 


 

 

Theo sơ đồ trên, tiếng Hàn Quốc hay Bắc Triều Tiên khá giống với tiếng Nhật về từ vựng, thứ tự sắp xếp từ, ngữ pháp, ý nghĩa và chữ viết, tuy nhiên mặt phát âm lại có sự khác nhau rõ rệt. Tiếng Trung Quốc có sự tương đồng về mặt từ vựng, chữ viết nhưng thứ tự sắp xếp từ, ngữ pháp, ý nghĩa và phát âm lại khác so với tiếng Nhật. Nhìn vào biểu đồ của hầu hết ngôn ngữ các nước Âu Mỹ mà điển hình là nước Pháp, có thể thấy sự khác biệt rõ ràng về tất cả các mặt giữa ngôn ngữ những nước này với tiếng Nhật. Chính vì thế, học Tiếng Nhật với người Hàn Quốc, hay Bắc Triều Tiên là rất đơn giản, đối với người Trung Quốc phức tạp hơn một chút, còn đối với người sử dụng các ngôn ngữ khác thì vô cùng vất vả. Kết quả là, có một khoảng cách trong quá trình tiếp thu tiếng Nhật giữa những quốc gia có ngôn ngữ mẹ đẻ gần gũi với tiếng Nhật với những quốc gia có ngôn ngữ bản xứ khác xa tiếng Nhật. Ví dụ điển hình là, một học sinh Hàn Quốc hoặc Trung Quốc chỉ mất một năm rưỡi để lên đến trình độ tiếng Nhật cao cấp nhưng thời gian này đối với một học sinh ở những quốc gia khác tối thiểu là 3 năm. Ở chiều ngược lại, chúng ta có thể thấy rằng tiếng Pháp, tiếng Anh không hề phức tạp đối với người dân của nhiều quốc gia, nhưng lại là trở ngại lớn đối với người Nhật. Từ luận điểm này, có thể xác định được rằng ngôn ngữ của một đất nước có sử dụng chữ Hán hay không ảnh hưởng khá nhiều đến việc người dân nước đó tiếp thu tiếng Nhật nhanh hay chậm.

Những lập luận trên được củng cố thêm qua thực tế điều tra về năng lực tiếng Nhật của lao động người nước ngoài ở Nhật Bản hiện nay.

 


 


 

Nguồn: The Japan Institute for Labour Policy and Training (2009), 外国人労働者の雇用実態と就業生活支援に関する調査, pp.71.

Có thể thấy, chỉ xét về hội thoại, lao động người nước ngoài có khả năng giao tiếp hàng ngày và làm việc chỉ chiếm 25%, về năng lực viết và đọc hiểu tỉ lệ người có đủ khả năng để sử dụng là rất ít. Hơn thế, tỉ lệ người hoàn toàn không sử dụng được tiếng Nhật vẫn còn khá lớn.

Xét trên phương diện khác, không tính đến các quốc gia Âu Mỹ, nơi sử dụng ngôn ngữ quốc tế là tiếng Anh hay tiếng Pháp, có thể nhận thấy ngay trong những quốc gia thuộc chung khu vực Châu Á cũng có sự khác biệt không nhỏ về mặt thích ứng với ngôn ngữ tiếng Nhật phức tạp này. Sự khác biệt này có thể gây ảnh hưởng nhất định đến quan hệ giữa lao động nước ngoài với đồng nghiệp người Nhật khi làm việc chung. Ngoài ra, sự khác biệt này có thể gây ra vấn đề giai cấp trong cộng đồng người nước ngoài làm việc tại Nhật nếu số lượng này tăng đến một mức độ nào đó.

Trong quá khứ, nhiều nhà máy, công xưởng lớn ở Tây Âu thuê nhiều lao động nước ngoài, và chính tại những chỗ đó hình thành nên một quan hệ trên dưới phức tạp do sự khác nhau về chủng người và tính dân tộc tạo nên tình trạng "Phân chia lao động theo văn hoá" (Cultural division of labour). Ví dụ như tại một công xưởng sản xuất ô tô tại Pháp, vị trí quản lý hay quản đốc do người Pháp đảm trách, vị trí lao động thuần thục được phân cho người Anh hoặc người Tây Ban Nha, trong khi bộ phận lao động giản đơn chỉ dành cho người Bắc Mỹ. Sự "phân chia lao động theo văn hoá" ở đây có thể một phần là do nguyên nhân khác nhau về chủng người, nhưng cũng không thể phủ nhận được sự ảnh hưởng trong khoảng cách về ngôn ngữ cũng như khoảng cách về văn hoá[1].

Tại Nhật Bản hiện nay cũng vậy, trong một số lĩnh vực như ngành thực phẩm, khả năng tiếng Nhật của lao động người nước ngoài cũng quyết định công việc, chế độ đãi ngộ hay thậm chí là tiền lương của họ. Người có khả năng giao tiếp bằng tiếng Nhật thuần thục có thể tham gia vào công việc tiếp khách trực tiếp, nhưng với người không có khả năng này, công việc của họ chỉ giới hạn bởi các hoạt động chân tay. Nhiều lao động mới sang Nhật, chưa thạo tiếng thường làm trong các xưởng đóng gói cơm hộp, phải làm vào ban đêm rất vất vả. Những lao động có trình độ tiếng Nhật cao hơn có thể xin làm trong siêu thị, hoặc các nhà hàng. Ngoài ra, có những hình thức công việc còn yêu cầu cả khả năng đọc hiểu và viết ngoài khả năng giao tiếp. Không khó để nhận ra ranh giới phân chia, mặc dù chỉ mang tính tương đối, trong cộng đồng lao động người nước ngoài được qui định bởi trình độ ngôn ngữ tiếng Nhật.

Phan Cao Nhật Anh

Tổng hợp từ tài liệu:

-         The Japan Institute for Labour Policy and Training (2009), 外国人労働者の雇用実態と就業生活支援に関する調査

-         Takamichi Kajita (孝道梶田) (1994), 外国人労働者 と日本。日本放送出版協会.



[1]外国人労働者 と日本, tr.104

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn