GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

GIÁO PHÁI TENRI Ở NHẬT BẢN (phần 1)

Đăng ngày: 21-07-2013, 13:05

  1. 1. Lịch sử phát triển của giáo phái Tenri

Giáo phái Tenri (dưới đây viết là Tenrikyo)[1] ra đời vào thế kỷ 19, vì vậy được xếp loại vào nhóm shinshukyo - tôn giáo mới ở Nhật Bản. Tenrikyo là một tôn giáo độc thần, do một phụ nữ Nhật Bản tên là Nakayama Miki (中山 美伎) (1798- 1887) sáng lập. Bà được gọi là Oyasama (親様) giáo tổ của giáo phái này. Tenrikyo tin rằng Thần Tenri-O-no-Mikoto (天理王命 - Thiên lý vương mệnh) truyền đạt những ý nguyện thần thánh đến các môn đồ thông qua Giáo chủ Nakayama - người có vai trò Thờ Thần (神のやしろ), phó Giáo chủ Izo Iburi và những người lãnh đạo khác của giáo phái. Lý tưởng thực tế của Tenrikyo là truyền bá và phát triển “Cuộc sống vui vẻ” (陽気ぐらし), được tu dưỡng qua những hoạt động từ thiện, gọi là hinokishin (日の寄進).

Theo lịch sử Tenrikyo, Nakayama Miki được chọn làm Người thờ Thần vào năm 1838. Khi chồng và con trai mắc bệnh, gia đình bà đã nhờ một nhà sư đến để xua đuổi tà ma. Trong lúc nhà sư tạm thời vắng mặt và nhờ Miki đảm nhận vai trò, bà được Thần Tenri-O-no-Mikoto (天理王命) nhập vào, yêu cầu Miki thay mặt Thần cứu tế dân chúng. Sau đó, bà được chồng chấp thuận điều này, và ba ngày sau, ngày 26/10/1838 được coi là ngày lập giáo của Tenrikyo.

Cơ cấu của Tenrikyo thời kỳ đầu thành lập gồm có Giáo chủ và các tín đồ. Sau khi Giáo chủ Nakayama Miki qua đời, các thế hệ tiếp theo trong gia đình bà giữ vị trí Trụ cột chính (真柱; dưới đây gọi là Shinbashira) - thủ lĩnh tinh thần và là người hướng dẫn các hoạt động thực tế của giáo phái Tenri. Người giữ vai trò Shinbashira đầu tiên của Tenrikyo là Shinnosuke Nakayama, cháu trai của giáo chủ. Shinosuke được chọn để giữ vị trí  Shinbashira từ khi còn trong bụng mẹ. Ông là con trai thứ ba của Sojiro và Haru Kajimoto (con gái thứ ba của giáo tổ), sau đó trở thành người thừa kế của gia tộc Nakayama. Ông bắt đầu đảm nhiệm vị trí Shinbashira từ năm 1886.

Bên cạnh Shinbashira, một trụ cột khác của giáo phái được gọi là Vị trí chính (本席; dưới đây gọi là Honseki), do Izo Iburi (伊蔵 飯降) (1833- 1907) đảm nhiệm. Izo Iburi là một trong những tín đồ đầu tiên của Miki, người chủ trì các buổi thuyết giáo quan trọng (timely talks) và trả lời câu hỏi của các tín đồ. Những truyền đạt mang tính khai sáng của Honseki được viết lại và tổng hợp trong một công trình lớn nhiều tập, được gọi là Osashizu (おさしづ). Sau khi Izo qua đời, một người phụ nữ tên là Ueda Naraito (上田ナライト) tạm thời đảm nhiệm vị trí này trong một khoảng thời gian ngắn, song bà không thể giữ danh hiệu Honseki thực sự, vì lý do bệnh tật... Sau đó, Tenrikyo không còn vị trí Honseki nữa, dù vài nhóm nhỏ của Tenrikyo tin tưởng rằng sự lãnh đạo khai sáng đã truyền từ Iburi tới những nhà sáng lập của họ. Vị trí Honseki dần dần mất đi ảnh hưởng, từ năm 1918, Shinbashira trở thành trụ cột duy nhất của Tenrikyo.

Vị trí Shinbashira được truyền qua các thế hệ của gia đình Nakayama, cho tới nay đã có bốn thế hệ Shinbashira. Đó là Shinnosuke (1866- 1914) tại vị từ năm 1886 tới năm 1914, Shozen (1905- 1967) tại vị từ 1915 tới 1967, Zenye (sinh năm 1932) tại vị từ năm 1967 tới 1998, và Zenji (sinh năm 1959) tại vị từ năm 1998 tới nay.

  1. 2. Một số đặc điểm của Tenrikyo

2.1.Tính hỗn hợp

Cũng như Việt Nam, nơi các tín ngưỡng dân gian như tục thờ Mẫu, thờ Thành hoàng... hoà quyện với đạo Phật, thể hiện ở tập quán đi chùa vào ngày rằm, mùng một, và ảnh hưởng Nho giáo khá rõ nét trong thi cử bằng cấp, truyền thống trọng con trưởng, con trai..., thì từ xa xưa Nhật Bản đã có truyền thống tín ngưỡng hỗn hợp, các tôn giáo tồn tại trên cơ sở ảnh hưởng lẫn nhau mà không bài trừ nhau. Chính vì vậy, các tôn giáo mới cũng mang tính hỗn hợp, và Tenrikyo không phải là ngoại lệ. Lịch sử của Tenrikyo khá phức tạp, do hình thành trong thời kỳ có những thay đổi lớn trong xã hội Nhật Bản và bị ảnh hưởng sức mạnh của Thần đạo trong khoảng thời gian sau khi Tenrikyo được thành lập. Trong thời kỳ đầu thành lập, những tín đồ của Tenrikyo phải nhượng bộ, sáp nhập, ẩn trong một ngôi chùa địa phương để tránh bị chính quyền ngược đãi. Cuối cùng, Tenrikyo được chính quyền Nhật Bản cho phép hoạt động với tư cách là một trong 13 môn phái chính thức của Thần đạo, mặc dù có hệ thống nguồn gốc và hệ thống cấp bậc thần thánh khác với Thần đạo. Con trai của giáo tổ Miki Nakayama là Shuji Nakayama (中山秀司) đã có được sự đồng thuận và sự bảo vệ từ nhánh Yoshida hùng mạnh của Thần đạo vào thời kỳ đầu phát triển của Tenrikyo.

Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, ảnh hưởng của Mỹ tại Nhật, Thần đạo bị mất đi vị trí độc tôn. Lúc này, chính quyền yêu cầu Tenrikyo rời khỏi vị trí là nhánh chính thống của Thần đạo và chuyển sang thành “Tôn giáo khác”.  Mặc dù về tổ chức, hiện nay Tenrikyo đã hoàn toàn tách biệt khỏi Thần đạo và Phật giáo, song vẫn có những hoạt động tôn giáo mang tính truyền thống của Nhật Bản. Ví dụ, rất nhiều thứ được sử dụng trong các buổi tế lễ tôn giáo của Tenrikyo, như hassoku (はっそく) và sanpo (さんぽ) cũng được sử dụng trong các nghi lễ truyền thống của người Nhật, và cách thức cúng tế cũng mang đậm nét truyền thống. Tenrikyo sử dụng nhạc cụ truyền thống trong các buổi tế lễ (お勤め- otsutome) của họ như: Hyoshigi ((拍子木- lắc chuông gỗ), Chanpon (ちゃんぽん- chũm chọe), Surigane (摺り鉦- chiêng nhỏ), Taiko (太鼓-trống lớn), Tsuzumi (鼓- trống vai), Fue (笛- sáo tre), Shamisen (三味線), Kokyu (胡弓)và Koto (箏). Chúng được dùng trong Mikagura-Uta- một số điệu nhạc, bài hát và điệu nhảy được Nakayama sáng tạo. Phần lớn những người đi tiên phong trên thế giới về dòng nhạc Gagaku (雅楽 -một dòng nhạc cổ của Thần đạo thuộc về hoàng gia Nhật) cũng là những tín đồ của Tenrikyo, và dòng nhạc Gagaku được phát triển nhờ Tenrikyo, mặc dù Mikagura-Uta và Gagaku thực chất là hai dòng nhạc độc lập với nhau.

Nếu ảnh hưởng Thần đạo thể hiện rõ nét ở các nghi lễ của Tenrikyo, thì ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo thể hiện khá rõ trong triết lý của giáo phái này. Nguyên tắc cơ bản nhất của Tenrikyo là kashimono - karimono (借物-貸物), tức là “có vay có trả”. Trong nguyên tắc này,  thứ được vay và trả chính là cơ thể con người. Tín đồ Tenrikyo tin rằng tâm trí họ là thứ gì đó có thể kiểm soát được, nhưng cơ thể của họ thì không hoàn toàn như vậy. Thuyết “Cuộc sống vui vẻ” của Tenrikyo đề cao việc sống khoan dung, tránh xa những tham lam, ích kỷ, hận thù, giận dữ và kiêu căng. Tuy vậy, tính cách tiêu cực không bị coi là tội lỗi trong giáo lý Tenrikyo, mà là “bụi” (埃) - một cách ẩn dụ - có thể được thổi bay khỏi tâm trí thông qua việc tu thân và tập luyện hàng ngày Hinokishin và các nghi lễ.

Hinokishin là sự nỗ lực, tự nguyện trau dồi bản thân, thể hiện khát vọng sống vị tha và lòng biết ơn sắc đối với việc được Thần Tenri O no mikoto cho vay cơ thể và tinh thần (như luật kashimono – karimono) và bảo vệ (守護- shugo). Một số nguyên tắc căn bản của hình thức Tu thân và tập luyện Hinokishin là: 1-Tanno (たんのう- Chấp nhận vui vẻ) - thái độ có tính xây dựng, dám đối mặt với rắc rối, bệnh tật, khó khăn mà không phán xét những điều đã xảy ra trong quá khứ; 2- Juzen-no-Shugo (十全の守護) -10 nguyên tắc liên quan đến sự sáng tạo. Hai nguyên tắc này được quan niệm rằng có tính liên tục và xuyên suốt vũ trụ. Hinokishin là một hoạt động tự phát thể hiện lòng biết ơn Đấng Sinh thành về việc cho chúng ta “mượn cơ thể”. Hành động này được thực hiện như một hoạt động cống hiến cho tôn giáo để giúp đỡ, đem lại niềm vui cho mọi người, mà không yêu cầu được đền bù, hơn là một hoạt động cầu nguyện. Hinokishin bao hàm từ việc động viên người khác chỉ với một nụ cười giản dị, tới việc giúp cho cuộc sống của những người xung quanh tươi sáng hơn. Có thể kể ra một vài ví dụ về hoạt động Hinokishin như: lau dọn phòng tắm công cộng, quét dọn công viên cùng với những buổi tế lễ cộng đồng khác. Tenrikyo quan niệm rằng khi chúng ta làm những việc mà người khác ít muốn làm nhất, lòng chân thành của chúng ta sẽ được ghi nhận trong mắt Thần. Hinokishin cũng là phương pháp để “quét sạch bụi tinh thần” chồng chất trong tâm trí chúng ta. Có 8 loại “bụi Tinh thần” là: Keo kiệt (惜しい- Oshii), Thèm muốn (欲しい- Hoshii), Căm ghét (憎い- Nikui), Tự ái (可愛い- Kawai), Thù hận (怨み- Urami), Giận dữ (腹立ち- Haradachi), Tham lam (欲く- Yoku), Kiêu ngạo (高慢- Kouman). Ở điểm này, các triết lý của Tenrikyo khá tương đồng với tư tưởng của Phật giáo như: Tứ diệu đế, Vô thường, Luân hồi, Nhân- Quả và con đường tu tập (Bát chính đạo) để tới cõi Niết bàn.

2.2.Tính bí ẩn - ma thuật

Tính bí ẩn, ma thuật là đặc điểm chung của các tôn giáo ở mọi thời đại. Đây cũng là đặc điểm tạo nên diện mạo thần thiêng và sức hút tín đồ của các tôn giáo, trong đó có Tenrikyo. Ở Tenrikyo, trước hết tính ma thuật được thể hiện thông qua việc tín đồ của giáo phái này tin tưởng rằng Thần Tenri-O-no-Mikoto (天理王命 - Thiên lý vương mệnh), truyền đạt những ý nguyện thần thánh của mình thông qua Giáo chủ Nakayama Miki. Các tín đồ chỉ tin tưởng vào một vị thần duy nhất là Tenri-O-no-Mikoto - Đấng Sáng thế và Đấng Sinh thành của loài người. Họ được truyền dạy rằng Vũ trụ là Thân thể của Thần. Mục tiêu tinh thần cơ bản của Tenrikyo là xây dựng Kanrodai (甘露台) - một cột trụ tôn giáo tuyệt vời ở trung tâm thế giới, nơi giao thoa giữa thiên đường và mặt đất (axis mundi), được gọi là Jiba (地場). Bên cạnh đó, nghi lễ Kagura  (かぐら)  được cử hành xung quanh Kanrodai. Lý tưởng coi Jiba là khởi nguồn của sự sáng tạo trái đất, được gọi là Moto-no-ri (元の理), hay Nguyên lý khởi nguồn. Cuộc hành hương tới Jiba chính là sự trở về. Lời chào mừng Okaeri nasai (お帰りなさい- chào mừng về nhà) được viết trên rất nhiều quán trọ ở thành phố Tenrin như một sự khích lệ tinh thần đối với các tín đồ hành hương. Thuyết đầu thai cũng là một phần của tôn giáo này, dưới hình thức denaoshi (出直し), nghĩa là “qua đời để tái sinh”.

Trong học thuyết của Tenrikyo, có ba mức độ trong việc thấu hiểu bản chất của Thần: Bậc một là Kami (神), khi Thần được hiểu theo nghĩa hàng ngày; Bậc hai là Tsukihi (月日- Mặt Trăng và Mặt Trời) hoặc Thần - người sáng tạo ra tự nhiên và quy luật tự nhiên; và cuối cùng là Oya (親) - tức Thần là Đấng Sinh thành của vạn vật. Có ba cuốn kinh điển chính của Tenrikyo hay còn gọi là Tam nguyên điển (三原典)bao gồm: Ofudesaki (御筆先- Đầu bút, do Oyasama viết), Mikagura- Uta (神樂歌- Thần lạc ca) và Osashizu (おさしづ)  do Izo Iburi viết.



[1] Tenrikyo, tiếng Nhật là (天理教 - Thiên lý giáo).

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn