GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

GIÁO PHÁI TENRI Ở NHẬT BẢN (phần 2)

Đăng ngày: 26-07-2013, 10:32

2.3.Tính hiện thế

Trái ngược với các tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Kitô giáo,… đều hướng tới tu hành để đạt được cuộc sống hạnh phúc sau khi chết, chứ không phải là ở ngay cuộc sống thực tại, các tôn giáo mới đi vào những vấn đề hàng ngày con người quan tâm như chữa bệnh, môi trường.. đem lại cho họ lối thoát trong tinh thần, tìm thấy niềm vui sống. Tenrikyo là một tôn giáo mới điển hình như vậy. Trong thời gian đầu thành lập, Tenrikyo là tôn giáo mới đầu tiên tiến hành các hoạt động xã hội ở Nhật như: mở trại trẻ mồ côi, nhà trẻ công cộng và trường cho người khiếm thị.

Tính hiện thế ở Tenrikyo còn thể hiện ở việc ban phép thiêng Sazuke (おさづけ)với hình thức như một buổi cầu kinh để chữa lành bệnh tật. Những người tham gia phải thực hiện 9 Bài dạy chữa lành bệnh tật Besseki (別席). Khi một người được ban phép Sazuke, họ được công nhận là một Yoboku (用木), tức là người có ích cho cộng đồng. Phép thiêng Sazuke được sử dụng cho những người đang phải chịu đau khổ vì bệnh tật, khẩn cầu Thần ban phép để hồi phục. Việc hồi phục đòi hỏi sự cố gắng chân thành của cả người cần trị bệnh lẫn người quản lý Sazuke, để gột sạch “bụi tinh thần” khỏi tâm trí họ. Chỉ khi tâm trí thuần khiết, những lời ban phép lành của Thần mới có thể đến được với người cần trị bệnh thông qua vị Yoboku quản lý Sazuke này. Và sự bảo vệ thiêng liêng của Thần chỉ xuất hiện khi Thần chấp nhận lòng chân thành của một Yoboku và người bệnh. Việc trị bệnh sẽ hoàn tất khi người được trị bệnh lưu tâm tới những “bụi tinh thần” và lời giảng của Tenrikyo để điều trị “tâm trí đầy bụi bẩn” của họ.

 

2.4. Tính nữ quyền

Ở các tôn giáo mới, số lượng phụ nữ tham gia với tư cách người sáng lập hay thủ lĩnh là hiện tượng khá phổ biến. Giáo tổ Nakayama Miki của Tenrikyo, cũng như Deguchi Nao của giáo phái Omoto và Kitamura Sayo của Cứu thế giáo... đều là những điển hình như vậy. Điều này không phải vì phụ nữ đóng vai trò quan trọng hơn nam giới trong lịch sử tôn giáo Nhật Bản hiện đại, mà là vì họ thể hiện sự năng động hơn đàn ông trong lĩnh vực này. Cùng với vị trí Thủ lĩnh như đã đề cập, phụ nữ còn thường đóng vai trò như người thầy, nhà truyền giáo trong các tôn giáo mới với tỉ lệ cao hơn nhiều so với các tôn giáo truyền thống đã được công nhận. Có lẽ điều này cũng phản ánh thực tế đa số tín đồ tôn giáo mới ở Nhật Bản là phụ nữ.

2.5.Tính thế tục

Cách thức truyền giáo của các tôn giáo mới mang tính thế tục. Thay vì truyền giáo thông qua đội ngũ thầy tu, nhà sư…như các tôn giáo truyền thống, tôn giáo mới tận dụng sức mạnh của các phương tiện truyền thông hiện đại như báo, đài, ti vi và sau này là mạng Internet để tuyên truyền và kêu gọi thêm tín đồ quan tâm, gia nhập tổ chức của mình. Ngay trong bộ Kinh điển của Tenrikyo, các từ thuộc về ngành xây dựng, làm đồ gỗ, nông nghiệp... cũng được sử dụng khá nhiều để truyền bá một cách dễ hiểu nguyên lý của giáo phái. Trong đó, việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn được đề ra một cách cụ thể qua từng bước, ở đó con người sẽ dần dần thấu hiểu,  đoàn kết và hợp tác với nhau trong công việc. Sự trưởng thành về tinh thần trong Tenrikyo cũng được xem là một quá trình bước từng bước mà ở đó, tín đồ có thể tự bước đi trên con đường của mình.

Tính hiện thế còn thể hiện ở việc các nghi lễ của Tenrikyo được tổ chức linh hoạt và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giáo phận. Nhờ vậy mà cơ sở của Tenrikyo phát triển rộng khắp Nhật Bản và ở nhiều nước trên thế giới. Trong các nghi lễ có Otsutome - buổi tế lễ hàng ngày, bao gồm hoạt động tế lễ tại chỗ và thực hiện 1 hoặc 2 chương trong 12 chương Teodori (手踊り- điệu múa tay) hoặc Yorozuyo (よろづよ) nhưng không bắt buộc. Buổi tế lễ hàng ngày được thực hiện 2 lần một ngày, một lần vào buổi sáng và một lần vào buổi tối. Thời gian tiến hành được điều chỉnh theo thời gian mặt trời mọc và mặt trời lặn, nhưng thường có sự khác nhau giữa các nơi. Thời gian tiến hành tại Jiba, thành phố Tenri cũng theo thời gian biểu này và được điều chỉnh tùy vào sự thay đổi của các mùa.

Nhạc cụ được sử dụng trong buổi tế lễ hàng ngày là Hyoshigi, Chanpon, Surigane, Taiko và Kazutori (数取- một dụng cụ để đếm đủ lần thứ 21 đoạn nhạc đầu tiên được lặp lại). Thường thì người đứng đầu giáo phận phụ trách việc chơi Hyoshigi. Nếu người đứng đầu không có mặt, bất kỳ ai cũng có thể thay thế vị trí của người ấy. Buổi tế lễ hàng ngày không nhất thiết phải thực hiện ở giáo đường mà có thể làm ở bất cứ đâu, trong bất cứ thời gian nào, chỉ cần 1 người hướng về phía Jiba - “ngôi nhà của đấng Sinh thành”. Mục đích của buổi tế lễ hàng ngày này, theo lời dạy của Miki Nakayama, là để quét sạch “8 loại bụi tinh thần” trong tâm trí. Hiệp hội Nam thanh niên Tenrikyo và Hiệp hội Phụ nữ Tenrikyo là những tổ chức Tenrikyo thường thực hiện các hoạt động tập thể như: tế lễ cộng đồng... Việc tham gia vào những tổ chức này cũng có thể xem là Hinokishin (tu thân).

Tsukinamisai (月次祭) là buổi tế lễ để bảo vệ thế giới, được tiến hành theo tháng. Thường thì người đứng đầu các trung tâm truyền giáo hoặc giáo đường lớn (có từ 100 giáo đường nhỏ trở lên trực thuộc) sẽ tổ chức buổi tế lễ theo tháng vào ngày Chủ Nhật thứ 3 của các tháng, còn những giáo đường khác có thể tổ chức vào bất cứ ngày Chủ Nhật nào của tháng. Buổi tế lễ theo tháng ở Jiba được tổ chức vào ngày 26 mỗi tháng, ngày giáo phái Tenrikyo lần đầu tiên được hình thành (26/10/1838). Nhạc cụ dùng trong buổi tế lễ tháng là tất cả các loại nhạc cụ như đã trình bày ở phần trên. Người biểu diễn bao gồm các vũ công: 3 nam, 3 nữ và 1 người hát chính. Người biểu diễn mặc trang phục montsuki (紋付)truyền thống, có thể không bắt buộc, tùy theo giáo đưởng.

3. Hệ thống Tenrikyo ở Nhật Bản và trên toàn thế giới

Hiện nay, Tenrikyo bao gồm 16.833 giáo đường do địa phương quản lý. Jiba (地場) – Giáo đường chính được đặt tại thành phố Tenri. Oyasato Yakata - một trong những giáo đường quan trọng và các tổ chức phục vụ cộng đồng khác như: nhà trẻ, trường học, bệnh viện, võ đường... có ở khắp các địa phương trên đất nước Nhật Bản. Về số lượng tín đồ, chỉ tính riêng ở Nhật Bản đã có khoảng 1,75 triệu tín đồ, ngoài ra, có hơn 2 triệu tín đồ khác trên toàn cầu. Cơ cấu tổ chức của Tenrikyo được chia thành rất nhiều nhóm khác nhau, có mục tiêu chung nhưng đảm nhiệm các chức năng khác nhau, từ việc thành lập Daikyokai (大教会- “Thánh đường lớn”) tới các tổ chức cứu trợ thiên tai, các nhân viên y tế và bệnh viện, các trường đại học, các viện bảo tàng, thư viện, và rất nhiều trường học, võ đường. Tenri Judo nổi tiếng là một môn phái Judo thành công đã sản sinh ra rất nhiều nhà vô địch, cùng với những CLB thể thao và nghệ thuật khác trong Tenrikyo.

Trong mối quan hệ với các tôn giáo khác, Tenrikyo được coi là một tôn giáo. Song, đối với nhiều tín đồ, lời giảng về vũ trụ của Tenrikyo thực sự trở thành một triết lý về cuộc sống, và do vậy, việc tin theo Tenrikyo không ảnh hưởng gì tới lòng tin đối với các tôn giáo khác. Không hiếm những tín đồ Tenrikyo đồng thời còn tin vào Thiên Chúa giáo hoặc Phật giáo. Mối quan hệ giữa Tenrikyo và đạo Tin Lành cũng khá tốt: có thể thấy nhiều biểu tượng của Kitô giáo trong các văn bản hướng dẫn bằng tiếng Anh của Ofudesaki trong Tenrikyo. Điều này có lẽ là do những nhà truyền giáo đạo Kitô đã giúp dịch các tài liệu này sang tiếng Anh.

Trên đây là một số nét chính về Tenrikyo, một trong những giáo phái độc đáo của Nhật Bản. Tìm hiểu về Tenrikyo sẽ giúp chúng ta hình dung về đời sống tôn giáo mới, cũng như những vấn đề xã hội ở Nhật Bản. Một số điểm chính của Tenrikyo khiến ta liên tưởng tới các giáo phái khác như: giáo phái Omoto cũng có người sáng lập là phụ nữ, trong kinh điển đều có bộ Ofudesaki, chế độ truyền ngôi trong gia đình... Tuy nhiên, do dung lượng bài viết có hạn nên trong bài này chúng tôi chưa thể so sánh hai tôn giáo nói trên. Chúng tôi hy vọng rằng sẽ có dịp trình bày vấn đề này trong các bài viết tiếp theo.

Ths. Nguyễn Ngọc Phương Trang

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Phạm Hồng Thái (Chủ biên), Đời sống tôn giáo Nhật Bản hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
  2. Murakami Shigeyoshi, Tôn giáo Nhật Bản, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2005.

3.         George Sansom. Lược sử Văn hoá Nhật Bản. Tập I, II. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994.

4.         Joseph M.Kitagawa. Nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002.

5.         Richard Bowing và Peter Komicki. Bách khoa thư Nhật Bản. Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản. Hà Nội, 1995.

6.         Sueki Fumihiko, Lịch sử tôn giáo Nhật Bản, dịch giả Phạm Thu Giang, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2011.

7.  出口三平、新宗教時代(I)、大蔵出版株式会社、1997.

8.         島田裕巳、新宗教ビジネス、株式会社講談社、2008.

9.         島薗進、現代宗教の可能性オウム真理教と暴力、株式会社岩波書店、2002.

10.       島田裕巳、日本の10大新宗教、幻冬舎新書061.

11.       石倉浩、日本の新宗教(知らないではすまされない)-読んでナットグ、2億人、巨大市場の裏のウラ、文庫ぎんが堂、2008.

12.  http://en.tenrikyo-resource.com/wiki/Main_Page

13. http://ja.wikipedia.org/wiki/%E5%A4%A9%E7%90%86%E6%95%99

14. http://www.tenrikyo.or.jp/jpn/

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn