GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Bất bình đẳng giới ở Nhật Bản

Đăng ngày: 24-02-2014, 14:55

BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở NHẬT BẢN

Mặc dù là cường quốc đứng 3 trên thế giới, song bất bình đẳng giới vẫn là một vấn đề xã hội đáng chú ý trong xã hội Nhật Bản hiện nay. Văn phòng nội các chính phủ cứ vài năm lại tiến hành điều tra xã hội học về sự bất bình đẳng giới trong công việc, qua tỉ lệ người được hỏi tán thành với quan điểm “Chồng làm việc ở bên ngoài, vợ chăm lo nội trợ”. Số người tán thành liên tục giảm từ năm 1992 đến 2009, nhưng cuộc điều tra vào tháng 10 năm 2012 cho kết quả tỉ lệ tán thành tăng lên quá bán. Đây thực sự là kết quả ngạc nhiên trong xu hướng kêu gọi xã hội bình đẳng nam nữ hiện nay. Có ý kiến cho rằng, trong xã hội già hóa như Nhật Bản, người trả lời phần lớn là người cao tuổi, những người mang trong mình quan niệm truyền thống thì tỉ lệ tán thành cao là hợp lý. Nhưng trên thực tế, tỉ lệ tán thành gia tăng ở những đối tượng trong lứa tuổi 20. Trước hiện tượng này, các chuyên gia đã đưa ra hai nguyên nhân chính tạo ra bất bình đẳng giới ở Nhật Bản hiện nay.

Nguyên nhân sinh đẻ và chăm lo gia đình. Môi trường công việc với thời gian làm việc dài, thời gian bắt buộc không theo qui tắc, cơ chế tạo điều kiện vừa chăm sóc con cái vừa làm việc còn thiếu.., khiến người phụ nữ rất khó có thể tiếp tục công việc. Trên thực tế, điều tra trong vòng 5 năm qua, số lượng phụ nữ xin thôi việc vì sinh đẻ và chăm sóc con cái lên đến 1.260.000 người. Trong số 6.650.000 lao động đang nuôi con, chỉ có 1.410.000 người sử dụng chế độ nghỉ nuôi con (nghỉ việc chăm con là 840.000 người, thời gian làm việc ngắn là 290.000 người)[1].  Những con số này cho thấy sự cần thiết hơn nữa chính sách hỗ trợ nuôi con đối với phụ nữ.

Bên cạnh việc chăm sóc sức khỏe bản thân, việc trông nom gia đình là nhân tố mang tính bước ngoặt ảnh hưởng mạnh đến quyết định công việc của người phụ nữ. Thực tế điều tra cho thấy trong 5 năm, có 490.000 người từ bỏ công việc vì lý do chăm sóc gia đình, trong đó 80% là nữ giới.

Song song với quá trình già hóa, nhu cầu chăm sóc là vấn đề cấp bách. Ngân sách cho phúc lợi xã hội, trong đó bao gồm cả việc chăm sóc người già, từ năm 1990 đến năm 2012 tăng từ 1,1% lên 4,3% GDP. Tỉ lệ người già trên 65 tuổi trong năm 2012 là 24,2%, dự đoán đến năm 2025 sẽ tăng lên 30,3% trên tổng dân số. Nhu cầu chăm sóc người già là rất lớn nhưng chi phí quốc gia cho lĩnh vực này đang phải xem xét lại do khó khăn tài chính. Theo Bộ Y tế Lao động và Phúc lợi Xã hội, tỉ lệ người già từ 2012 đến 2025 tăng 6,1% (24,2% lên 30,3%) nhưng chi phí cho chăm sóc người già theo GDP dự kiến chỉ tăng 1,4% (từ 1,8% lên 3,2%)[2].

Hiện nay, có nhiều cuộc thảo luận về việc cải cách bảo đảm xã hội, như mở rộng chăm sóc tại gia đình thông qua việc tăng cường thông tin giữa gia đình và các cơ sở y tế trong khu vực sinh sống. Song nếu không thực hiện tốt mô hình này, gánh nặng chăm sóc gia đình sẽ gia tăng làm cho người phụ nữ khó tham gia vào lực lượng lao động trong xã hội.

Quan niệm hi sinh vì tương lai của con cái. Người ta nhận thấy rằng những cách giải thích trên về việc phụ nữ Nhật Bản không đi làm chưa đi sâu vào các chiều cạnh khác. Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu tập trung phân tích bất bình đẳng giới trong mối tương quan với biến số hôn nhân và con cái để đưa ra giả thuyết về sự hi sinh vì tương lai con cái của phụ nữ Nhật Bản.

Năm 2010, điều tra thanh niên cho thấy tỉ lệ thanh niên từ 25-29 chưa kết hôn ở nam khoảng 70%, ở nữ khoảng 60%. Cuộc điều tra lần này của văn phòng nội các cũng khoảng hơn 50% thanh niên chưa kết hôn. Tỉ lệ thanh niên chưa kết hôn tán thành quan điểm “Chồng làm việc ở bên ngoài, vợ chăm lo nội trợ” ở cả nam và nữ đều cao. Vấn đề đặt ra là tại sao tỉ lệ tán thành trong nhóm này lại cao như vậy.

Trong nhóm đối tượng lứa tuổi 20 gồm những người đang đi học và cả những người đã tốt nghiệp đang đi làm. Điều tra lao động năm 2011 của văn phòng nội các với đối tượng thanh niên từ 25-34 tuổi cho thấy 15,2% nam giới và 41,0% nữ giới làm việc với tư cách là lao động không chính thức, còn lại là lao động chính thức.

Năm 2011, Viện nghiên cứu chính sách lao động đã tiến hành điều tra xã hội học với đối tượng là thanh niên Tokyo ở độ tuổi 20. Thời điểm điều tra này rất quan trọng bởi đối tượng điều tra là những người đã tốt nghiệp vào khoảng thời gian kinh tế đang hồi phục (từ năm 2004 – 2008) và đây cũng là giai đoạn họ bắt đầu làm việc và hay chuyển việc. Kết quả cho thấy so với các điều tra trước đó vào năm 2006 và 2001, tỉ lệ lao động chính thức ở cả nam nữ đều tăng, kiểu lao động tự do Furita không được đồng tình, những hình thức lao động mang tính ổn định như nhân viên chính thức, lao động dài hạn được ủng hộ hơn.

Đối với những người đã kết hôn thì sao? Qua so sánh 2 cuộc điều tra động thái gia đình toàn quốc trong năm 2011, sự tán thành quan điểm “chồng làm việc bên ngoài, vợ chăm sóc gia đình” ở nhóm người nội trợ và làm việc cho gia đình, hay tự kinh doanh hầu như không có sự thay đổi. Song, ở nhóm lao động thông thường tăng 12%, lao động bán thời gian tăng 8%. Về quan điểm “Vợ, chồng nên ưu tiên việc của con cái cho dù phải hi sinh công việc của bản thân”, tỉ lệ tán thành ở người vợ làm lao động bình thường hay bán thời gian đều gia tăng[3].

Trung tâm phát triển nghiên cứu giáo dục Benesse tiến hành điều tra với đối tượng là các bậc cha mẹ học sinh tiểu học và trung học cơ sở từ năm 1997 đến năm 2011. Kết quả cho thấy, tỉ lệ có quan tâm về việc “cha mẹ có quyết định, giúp đỡ con cái”, “cố gắng để con không tụt hậu với xã hội về mặt học tập”, “lo lắng về vấn đề học thêm và tương lai con cái”,… đều gia tăng.

Với kết quả điều tra xã hội trên, có thể thấy Nhật Bản vẫn là một xã hội còn hiện tượng bất bình đẳng giới. Nhật Bản đang nỗ lực đưa ra các chính sách thúc đẩy sự tham gia xã hội của phụ nữ, nhưng cho đến nay, mô hình phân công lao động theo giới, nỗi bất an đối với tương lai của con cái đang cản trở xã hội Nhật Bản. Cuộc khảo sát quốc tế cho thấy Nhật Bản là nước đứng thấp nhất trong các nền kinh tế phát triển về mặt bình đẳng giới. Theo báo cáo thường niên của Diễn đàn Kinh tế thế giới 2013, Nhật Bản đứng thứ 105 trong 136 quốc gia về tỉ lệ chênh lệch giới tính trong các hoạt động kinh tế và chính trị[4]. Trừ phi đưa ra được những chính sách hiệu quả thay đổi cách thức làm việc, làm cả xã hội cùng với gia đình chú trọng tới việc chăm sóc con cái, còn nếu không thì sự thực thi cân bằng giữa công việc và cuộc sống, phát huy năng lực cá nhân ở cả nam và nữ khó có thể trở thành hiện thực. Nhật Bản cần tạo ra một cơ chế xã hội mà cả nam và nữ cùng phối hợp, tự do lựa chọn được cách sống của mình.

Bộ giáo dục Nhật Bản đã thành lập một ủy ban đặc biệt nhằm bàn thảo các biện pháp nâng cao vị thế của phụ nữ. Trao cho phụ nữ nhiều cơ hội hơn là một trong những cột trụ chính trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của Thủ tướng Shinzo Abe. Ủy ban đặc biệt này sẽ tập trung soạn thảo các biện pháp tổng hợp để trao cho phụ nữ nhiều quyền lợi hơn trong suốt thời gian từ khi còn đi học tới khi đi làm. Các biện pháp này gồm có hỗ trợ các trường trung học cải thiện chương trình hướng nghiệp và phối hợp với các trường đại học và dạy nghề soạn thảo các chương trình học giúp cho phụ nữ dễ dàng tham gia lực lượng lao động hơn[5].

Bên cạnh việc nâng cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội, những biện pháp trên của Nhật Bản còn có mục đích huy động lực lượng phụ nữ tham gia vào thị trường lao động, làm giảm nỗi lo thiếu hụt nguồn lực lao động hiện nay, đảm bảo duy trì mức độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Tạo cơ hội cho những phụ nữ có năng lực đảm nhiệm các chức vụ quản lý, hay các vị trí trong hội đồng quản trị. Điều này làm gia tăng sức sản xuất trung và dài hạn, đồng thời đa dạng hóa nguồn quản lý của các công ty.

 

Phan Cao Nhật Anh, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

Nguồn tài liệu:

  1. Honda Yuki (本田 由紀), 不安の中で先祖帰りする若者たち -「夫は外、妻は家庭」意識の増加

http://www.nippon.com/ja/currents/d00072/

  1. Suzuki Masayuki (鈴木将之), 経済成長の鍵を握る女性の労働力、Economic Trends, マクロ経済分析レポート, 6/9/2013.
  2. Website NHK ngày 7/2/2014, http://www3.nhk.or.jp/nhkworld/vietnamese/top/

 

 

 

 



[1] Suzuki Masayuki (鈴木将之), 経済成長の鍵を握る女性の労働力

[2] Suzuki Masayuki (鈴木将之), 経済成長の鍵を握る女性の労働力

[3] Honda Yuki (本田 由紀), 不安の中で先祖帰りする若者たち -「夫は外、妻は家庭」意識の増加

[4] Website NHK ngày 7/2/2014, http://www3.nhk.or.jp/nhkworld/vietnamese/top/

 

[5] Website NHK ngày 7/2/2014, http://www3.nhk.or.jp/nhkworld/vietnamese/top/

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn