GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

ĐIỀU TRA VỀ THỰC TRẠNG PHỤ NỮ ĐÃ KẾT HÔN VÀ CÔNG VIỆC Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY

Đăng ngày: 26-04-2014, 12:20

ĐIỀU TRA VỀ THỰC TRẠNG PHỤ NỮ ĐÃ KẾT HÔN

VÀ CÔNG VIỆC Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY

Bùi Bích Vân

Theo công bố kết quả khảo sát hộ gia đình năm 2012 của Bộ Nội vụ và Truyền thông công bố thì bình quân thu nhập thực tế của hộ gia đình từ hai người trở lên là 518.506 yên/ 1 tháng, tăng 1,6 phần trăm so với cùng kỳ năm trước, không bao gồm các tác động của biến động giá cả.  Việc phụ nữ ra xã hội đi làm, hỗ trợ một phần chi tiêu cuộc sống sinh hoạt, tăng thu nhập cho gia đình đang có xu hướng tăng lên.  Kết quả điều tra thu nhập của hộ gia đình có hai người đi làm trở lên cho thấy: thu nhập chính tăng 0,2%, thu nhập trung bình của người vợ là 59.177 yên, và đạt kỷ lục cao nhất từ năm 1963 đến nay.

Trong vòng khoảng 10 năm từ tháng 3/2003 đến tháng 11/2012, thì số lao động nam tăng lên 1.074.654 người, nữ tăng 1.803.683 người. Thu nhập bình quân của nam giới có khuynh hướng giảm, trong khi nữ giới thì có xu hướng tăng. (biểu 1)

Biểu 1: Biến động thu nhập trung bình của nam và nữ đã kết hôn

Giới tính

3/2003

T.B thu nhập/ tháng

11/2012

T.B  thu nhập/ tháng

Tăng, giảm

(người)

Tăng, giảm

(tiền)

Nam

21.304.555

358.875

22.379.209

348.004

1.074.654

-10.871

Nữ

10.752.532

224.394

12.556.215

232.656

1.803.683

8.262

Nguồn: Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội

 

Số liệu này được tính cho toàn bộ nhân viên làm công ăn lương, trong đó có người lao động bán thời gian. Nếu nhìn vào điều tra thống kê thực tế người nhận lương của Sở Thuế vụ, thì năm 2003, mức lương trung bình của nam giới là 5.440.000 yên/năm, nữ giới là 2.750.000 yên/năm. Nhưng đến năm 2011, thu nhập bình quân/ năm của nam giới là 5.040.000 yên (giảm 7%), nữ là 2.680.000 yên (giảm 2%).

Cách đây hơn 30 năm, vào khoảng trước năm 1980 thì đa số là mô hình gia đình chỉ một mình người chồng đi làm, nhưng sau 1980 thì hàng năm số hộ gia đình có cả vợ và chồng cùng đi làm liên tục tăng.

Biểu 2: Sơ đồ biến động hộ gia đình có một người đi làm và cả hai vợ chồng cùng đi làm

 

(Chú ý): (1)- “Hộ gia đình 1 người đi làm” là những hộ chồng không làm nông nghiệp, vợ không đi làm; (2)- “hộ cả 2 vợ chồng đi làm” Là những hộ không phải làm nông nghiệp

 

Nhìn từ gốc độ tuổi phụ nữ đang đi làm chúng ta thấy, số phụ nữ có độ tuổi từ 25 đến 29 hàng năm đều tăng. Năm 1975,  số phụ nữ đang đi làm ở độ tuổi 25~29 tuổi chiếm 41.4% nữ giới cùng lứa tuổi, 30~34 tuổi chiếm 43.0%. Năm  2011,  số phụ nữ đang đi làm ở độ tuổi 25~29 tuổi chiếm 72.8%, các lứa tuổi khác chiếm 64.2% nữ giới lứa tuổi mình.

Một trong những bối cảnh làm tăng lượng lao động nữ đó là, ước muốn đi làm của phụ nữ ngày càng tăng cao. Trong cuộc thăm dò mẫu hình cuộc sống lý tưởng đối với phụ nữ năm 2010, thì mô hình “vừa kết hôn, sinh con, vừa có thể tiếp tục đi làm”, hoặc “kết hôn, nghỉ sinh con, sau đó lại xin đi làm” được 30% chị em phụ nữ lựa chọn, tăng lên rất nhiều so với năm 1992. (Biểu 3,4)

 

Biểu 3: Mô hình cuộc sống lý tưởng đối với phụ nữ

 


A:Phụ nữ sau khi kết hôn, nghỉ sinh con, không đi làm

B: Phụ nữ sau khi kết hôn, nghỉ việc sinh con, đi làm lại (có thể là partime)

C: Phụ nữ sau khi kết hôn, vừa tiếp tục công việc, vừa sinh con (chỉ nghỉ sinh con theo chế độ)

D: Phụ nữ kết hôn, không sinh con và vẫn tiếp tục đi làm

E: Phụ nữ đi làm, không kết hôn

Nguồn: Viện Nghiên cứu những vấn đề dân số và Bảo hiểm xã hội (Đối tượng điều tra từ 18-34 tuổi chưa kết hôn)

Biểu 4: Dự định lựa chọn mô hình cuộc sống tương lai của phụ nữ

 

A:Phụ nữ sau khi kết hôn, nghỉ sinh con, không đi làm

B: Phụ nữ sau khi kết hôn, nghỉ việc sinh con, đi làm lại (có thể là partime)

C: Phụ nữ sau khi kết hôn, vừa tiếp tục công việc, vừa sinh con (chỉ nghỉ sinh con theo chế độ)

D: Phụ nữ kết hôn, không sinh con và vẫn tiếp tục đi làm

E: Phụ nữ đi làm, không kết hôn

Nguồn: Viện Nghiên cứu những vấn đề dân số và Bảo hiểm xã hội (Đối tượng điều tra từ 18-34 tuổi chưa kết hôn)

Hiện nay, tỷ lệ tiếp tục làm việc sau hôn nhân tăng, tỷ lệ tiếp tục làm việc sau khi sinh vẫn không thay đổi. Số lượng phụ nữ đi làm nghỉ việc theo quy định của hôn nhân, sinh đẻ và nuôi con sau vẫn tiếp tục đi làm tương đối đông. Thậm chí nhiều người sau khi sinh, làm các công việc bán thời gian để dễ dàng vừa làm việc vừa trông con.

Trong sơ đồ đường cong hình chữ M (biểu 5), cho thấy từ tỷ lệ nữ 15~19 tuổi học lên đại học rất cao, năng suất lao động ở lứa tuổi này thấp. Biến động của tuổi kết hôn, và tuổi sinh con của phụ nữ có xu hướng ngày càng cao, năm 1975 từ 25 ~ 29 tuổi chiếm 42,6% ; Năm 1985, lứa tuổi từ 30 ~34 tuổi chiếm 50,6%, năm 1995 là 53,7%. Nhưng đến năm 2011, di chuyển đến lứa tuổi 35 ~ 39 tuổi, chiếm 67,0%, người ta thường gọi đây là xu hướng kết hôn muộn, dẫn đến sinh con muộn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do học vấn của phụ nữ ngày càng cao. Sau khi tốt nghiệp đại học, phụ nữ thường đi làm, càng ngày khoảng thời gian đi làm càng kéo dài, nên dẫn đến dần dần tuổi kết hôn sẽ càng cao dần lên.

 

Biểu 5:Biến động về năng suất lao động của phụ nữ tính theo lứa tuổi

 

(Chú ý): Số liệu tính từ lứa tuổi 15, trên phạm vi toàn quốc, riêng năm 2011 trừ 3 tỉnh: Iwate, Miyaki, Fukushima

Nguồn: Bộ Giao thông và quản lý đất đai

Biểu 6: Biến động việc làm của phụ nữ đã kết hôn

 

Nguồn: Viện Nghiên cứu Vấn đề Dân số và Bảo hiểm xã hội

Xem xét tình trạng đi làm trước và sau khi kết hôn của các bà vợ chúng ta thấy, tỷ lệ những người tiếp tục làm việc sau khi kết hôn vẫn ở mức xấp xỉ 60% trước và sau, tỷ lệ phần trăm của những người kết hôn đã nghỉ là 37,3% năm 1985 ~ 1989,  năm 2005-2009 đã giảm xuống 25,6%. Mặt khác, từ thực tế là này ta thấy loại là tình trạng việc làm trong khoảng thời gian sinh con, tỷ lệ những người đã làm việc trên trước khi mang thai đã tăng lên, tỷ lệ nghỉ việc sinh con của năm 1985-1989 là 37,4%, năm 2005 – 2009 là 43,9%. Nhưng tỷ lệ sinh con nghỉ chế độ vẫn duy trì công việc lại tăng từ 24,0% lên 26,8%.

 

Bùi Bích Vân

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

 

Nguồn:

  1. 基礎経済科学研究所編(1995). 『日本型企業社会と女』
  2. http://www.campus.ne.jp/~labor/houki/h11-4intouhou.html
  3. 厚生年金保険。国民年金事業状況(事業月報 平成24年11月現在)http://www.mhlw.go.jp/

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn