GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

SỰ THAY ĐỔI QUAN NIỆM VỀ HÔN NHÂN TRONG XÃ HỘI NHẬT BẢN HIỆN NAY (phần 1)

Đăng ngày: 12-09-2015, 00:25

1. Sự thay đổi quan niệm về hôn nhân trong xã hội Nhật Bản hiện nay

Con người luôn sống trong các quy định xã hội. Mặc dù bản thân mỗi người có thể hành động theo ý thức của mình. Những ý thức này lại luôn bị chi phối bởi quy định xã hội đó. Khi các qui định bám chắc trong xã hội, dù không muốn, con người vẫn phải tuân theo. Nhưng một khi các quy định hay ý thức xã hội thay đổi, con người có thể hành động một cách tự do tùy thuộc vào mong muốn của bản thân, không cần tuân theo những quy định này nữa. Kết hôn cũng là một quy định như thế. Nói cho chính xác hơn, nguyên nhân dẫn đến không kết hôn không phải là do ý thức của con người thay đổi, mà là quan niệm xã hội đã được mềm dẻo hóa. Như vậy, người Nhật Bản đã có một cái nhìn mới về hôn nhân. Kết hôn không còn là chuyện đương nhiên như trước đây, nó chỉ đơn giản là một sự lựa chọn trong nhiều sự lựa chọn khác nhau. Lối suy nghĩ “đã là con người thì ai cũng phải kết hôn” đã trở thành lạc hậu. Kết hôn hay không? không còn là vấn đề quan trọng nữa. Sinh con cũng vậy, trong thời kì nền kinh tế phát triển cao độ, mỗi gia đình Nhật Bản đều sinh 2 đến 3 con. Nhưng hiện nay sinh cũng được, không sinh cũng không bị xã hội phê phán, không bị gia đình, họ hàng và những người xung quanh thúc giục. Trong bối cảnh con người không còn bị trói buộc trong các quan niệm về hôn nhân thì những người nghĩ rằng kết hôn không có nhiều điểm tốt, hay kết hôn thì nhất định phải sinh con, hoặc sinh con thì nhất định phải kết hôn… Chính vì thế, số người duy trì lối sống độc thân, không kết hôn ngày càng tăng. Vậy tại sao người Nhật lại chọn cuộc sống có vè cô độc như vậy? Trung tâm nghiên cứu JGSS Đại học thương nghiệp Osaka đã tiến hành khảo sát quan điểm của mọi người về “Hạnh phúc trong hôn nhân”. Theo kết quả của cuộc điều tra này, có đến 40% số người trả lời không đồng ý với quan điểm “Chỉ có hôn nhân mới hạnh phúc”[1]. Như vậy, chưa xét đến vấn đề mang tính kinh tế thì những ưu thế về mặt tinh thần của kết hôn cũng đang mất đi.

Trong thế hệ Dankai sedai[2] đa số các gia đình đã duy trì sự phân chia vai trò theo giới, nghĩ là “Chồng ra ngoài làm việc, vợ chăm lo việc nhà”. Nam giới là trụ cột gia đình, có trách nhiệm kiếm tiền, nuôi sống vợ con và ngược lại, tuy không cần phải làm việc kiếm tiền nhưng nữ giới có trách nhiệm chăm lo việc nhà, con cái. Phần lớn nữ giới thời kì ấy đều nghỉ làm việc sau khi họ kết hôn hoặc sau khi sinh con. Cuộc đời của người phụ nữ sau khi kết hôn sẽ phụ thuộc tất cả vào người chồng. Tuy nhiên, từ thập niên 70, cùng với sự nâng cao của trình độ học vấn, phụ nữ bắt đầu tiến thân vào trong xã hội, thế hệ Dankai sedai cùng lúc nghỉ việc, trở thành những bà nội trợ thì giờ đây lại đồng loạt xin việc, tái gia nhập xã hội[3]. Xu hướng phụ nữ mặc dù kết hôn nhưng không phụ thuộc hoàn toàn kinh tế vào chồng đã tăng lên. Sự tự lập về kinh tế và nâng cao địa vị xã hội đã giúp người phụ nữ đã thoát khỏi tình trạng “Không kết hôn sẽ không thể tồn tại”.

Mặt khác, từ khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ, để tiết kiệm chi phí nhân sự, các doanh nghiệp đã đẩy mạnh tuyển dụng theo hình thức phi chính thức. Theo đó, tỷ lệ lao động phi chính thức tăng lên một cách nhanh chóng. Hơn nữa, trình độ học vấn ngày càng nâng cao giúp cho mức lương của nữ giới ngày tăng lên nhiều so với trước đây nên khoảng cách giữa nam giới và nữ giới về mặt thu nhập ngày càng được rút ngắn. Trong tâm lý của người phụ nữ, họ không hẳn muốn dựa dẫm, phụ thuộc vào chồng, nhưng ai cũng muốn lựa chọn cho mình một người đàn ông có thể trông cậy. Thế nhưng, hiện nay, số lượng nhân viên phi chính thức ngày càng tăng đã khiến cho kì vọng này của nữ giới khó có thể thực hiện. Không chỉ có thế, do suy thoái kinh tế, nhiều gia đình mà chỉ người chồng làm việc sẽ không đủ gánh vác kinh tế gia đình, buộc cả người vợ cũng phải ra ngoài làm việc, kiếm tiền. Mặc dù Nhật Bản đang chuyển từ gia đình theo mô hình phân công vai trò theo giới, sang gia đình mà vợ và chồng đều làm việc. Nhưng nói đến việc nhà và chăm sóc con cái vẫn chủ yếu do người vợ đảm nhiệm. Vừa phải đi làm kiếm tiền, lại vừa phải chăm lo việc nhà và con cái đã tạo cho phụ nữ nhiều áp lực. Vì vậy, đối với phụ nữ ưu điểm của hôn nhân đã không còn như trước.

Giống với nữ giới, quan điểm của nam giới đối với hôn nhân cũng đang thay đổi. Nếu như không kết hôn giúp người phụ nữ thoát khỏi áp lực về mặt kinh tế khi phải phụ thuộc vào người chồng như trước đây, thì đối với nam giới, đó là sự giải thoát khỏi trách nhiệm đối với gia đình. Trước kia, để nối dõi tông đường,duy trì dòng giống, nam giới bắt buộc phải sinh con trai. Nếu như trong xã hội Nhật Bản thời cận đại, đã có không ít nam giới lấy nhiều thê thiếp để hoàn thành trách nhiệm này. Thì giờ đây, quan điểm đối với hôn nhân đang thay đổi kéo theo quan niệm đối với gia đình của người Nhật cũng thay đổi. Ngay cả kết hôn cũng không còn cần thiết thì ý nghĩa của việc sinh con trai cũng không còn quan trọng như trước kia nữa. Trong xã hội hiện đại, khi mà người ta đề cao ý muốn cá nhân, thì đối với nam giới, ưu thế của kết hôn cũng không còn nữa.

Với những lý do trên, quan điểm về hôn nhân đang thay đổi cả với nam giới và nữ giới.  Cùng với sự nâng cao trình độ học vấn địa vị xã hội, nữ giới dần độc lập về kinh tế, họ “không cần kết hôn mà vẫn có là thể tồn tại”. Với nam giới, trách nhiệm duy trì gia đình dòng giống chỉ còn trong quá khứ nên tính ưu việt duy nhất mà kết hôn mang lại cho họ là niềm vui. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, đối với quan điểm “Hạnh phúc chỉ có trong hôn nhân”, số người đồng ý ở cả nam và nữ đều đang giảm. Trái lại, dưới tác động của suy thoái kinh tế, hôn nhân với hàng loạt các vấn đề liên quan như việc nhà, chăm sóc con cái chẳng những không có nhiều ưu điểm mà lại là trướng ngại cho con người. Vì thế, trong xã hội Nhật Bản, khi mà ưu điểm của kết hôn đang ít hơn so với nhược điểm thì kết hôn sẽ trở nên không quá cần thiết. Hơn nữa, quy phạm xã hội trong hôn nhân đã dần dần mềm dẻo hóa, đi đến xu hướng tôn trọng sự tự do của các cá nhân hơn, có kết hôn hay không cũng đều được  xã hội công nhận.

Bùi Bích Vân, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á


[1] http://jgss.daishodai.ac.jp/research/monographs/jgssm12/jgssm12_07.pdf

[2] Thế hệ được sinh ra Sau Chiến tranh

[3] 落合恵美子(2004).『21世紀家族へ―家族の戦後体制の見かた・超えかた』pp. 162、有斐閣選書

[4] http://www.mhlw.go.jp/wp/hakusyo/kousei/13/dl/1-02-3.pdf

[5] 落合恵美子(2004)『21世紀家族へ―家族の戦後体制の見かた・超えかた』pp.78、有斐閣選書

[6] 目黒依子 ・紫田弘捷 (1999).「企業主義と家族」目黒依子・渡辺秀樹『講座社会学〈2〉家族』、pp.59-87、東京大学出版会

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn