GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN KHUYNH HƯỚNG KẾT HÔN MUỘN VÀ KHÔNG KẾT HÔN Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY (phần 1)

Đăng ngày: 24-09-2015, 00:48

1. Do suy thoái kinh tế

Sự thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế. Thập niên 60, 70 được coi là thời kì của xã hội hậu công nghiệp, chủ nghĩa phi vật chất. Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu các ngành kinh tế giảm dần, thay vào đó là tỷ trọng của ngành dịch vụ tăng lên nhanh chóng. Đây là ngành kinh tế không đòi hỏi trình độ cao nên hầu hết đều tuyển dụng  nhân viên phi chính thức hoặc lao động với mức lương thấp. Thêm vào đó, sự phát triển của công nghiệp hóa giúp cho cuộc sống sinh hoạt của mọi người được cải thiện hơn trước. Những đồ gia dụng bằng điện như máy giặt, nồi cơm điện…ngày càng phổ biến giúp phụ nữ có nhiều thời gian rảnh để làm các công việc khác ngoài việc nhà. Mặt khác, hầu hết các công việc của ngành dịch vụ đều nhẹ nhàng, không đòi hỏi nhiều sực lực nên phù hợp với thể lực của phụ nữ[1]. Chính vì thế, từ thập niên 80, cùng với sự nâng cao trình độ học vấn, số lượng phụ nữ đi làm, gia nhập xã hội ngày càng tăng. Cũng từ đó, nội trợ không còn là sự lựa chọn duy nhất  của  phụ nữ có gia đình. Sau khi tốt nghiệp đại học, thay vì kết hôn, ở nhà làm nội trợ và chăm sóc con cái, phụ nữ Nhật Bản đã lựa chọn  một con đường mới. Và đó chính là đi làm, trở thành con người của xã hội - một người làm công ăn lương giống như nam giới.

Một nguyên nhân mới dẫn đến không kết hôn được các nhà xã hội học chỉ ra trong những năm gần đây là do sự suy thoái kinh tế. Kể từ khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ năm 1991, kinh tế Nhật Bản luôn chìm trong tình trạng bất ổn. Để tiết kiệm chi phí nhân sự, các doanh nghiệp đã và đang hạn chế tuyển dụng nhân viên chính thức. Bởi, so với nhân viên chính thức, lương của nhân viên phi chính thức chỉ bằng 1/3 hoặc 1/2 mà thôi. Theo giáo sư Ueno của trường đại học Tokyo, việc tuyển dụng nhân viên phi chính thức theo hợp đồng hay phái cử là hình thức “tuyển dụng vứt đi”. Điều này có nghĩa là, tuyển dụng phi chính thức là hình thức tuyển dụng không phải chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn sinh  hoạt giúp người lao động có thể ổn định cuộc sống và tái sản sinh sức lao động[2]. Theo “Điều tra lao động” của Bộ Tổng vụ Nhật Bản, từ thập niên 90 trở lại đây, nhìn chung tỷ lệ nhân viên chính thức đều tăng qua các năm và năm 2011 chiếm tới 35,4% tổng số lao động. Trong đó, tỷ lệ nhân viên phi chính thức của nam giới là 20,1%, nữ giới là 54,6%. Sự suy thoái của nền kinh tế đã dẫn đến nhiều thanh niên không thể tìm được những công việc ổn định và đương nhiên là họ sẽ thấy không thỏa mãn với cuộc sống hiện tại. Điều này dẫn đến sự gia tăng của tình trạng kết hôn muộn và không kết hôn. Mặc dù có đối tượng kết hôn, nhưng khi suy nghĩ nghiêm túc về tương lai, họ lại không thể đưa đến một quyết định cuối cùng, phải chấp nhận cuộc sống độc thân. Hoặc dù có kết hôn nhưng với những trăn trở, âu lo về cuộc sống, họ phải suy nghĩ xem làm sao có thể đem lại cho con mình một cuộc sống tốt đẹp khi mà ngay cả bản thân mình còn chưa ổn định. Vì thế, họ buộc phải sinh số con ít hơn mình mong muốn. Bởi vậy, có thể nói suy thoái kinh tế là một trong những nguyên nhân dẫn đến suy giảm tỷ lệ kết hôn và sinh con ở Nhật Bản trong những thập niên gần đây.

2. Do tác động của chính sách

Cùng với đó, những vấn đề mang tính chính sách cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến khuynh hướng kết hôn muộn và không kết hôn ở Nhật Bản. Chúng ta không thể phủ nhận nỗ lực của Chính phủ trong việc đưa ra các chính sách nhằm giải quyết tình trạng kết hôn muộn, già hóa dân số. Ví dụ như, tập trung thực hiện tốt các chính sách trợ giúp chăm sóc con cái về mặt tài chính; hỗ trợ để phụ nữ có thể cân bằng giữa công việc và chăm sóc gia đình… Những chính sách này được thể hiện rõ nhất qua sự ra đời của Luật nghỉ thai sản[3]. Nhưng, luật này chỉ áp dụng với những phụ nữ làm việc chính thức, trong khi đó như đã nói ở trên, chỉ tính riêng trong năm 2012 đã có hơn một nửa phụ nữ đang làm việc phi chính thức. Điều này có nghĩa là họ không phải là đối tượng được hưởng quyền lời từ đạo luật này. Hơn nữa, khác với các quốc gia có chế độ phúc lợi phát triển như Thụy Điển với “Chế độ bảo hiểm cha mẹ” đảm bảo 80% lương trước khi nghỉ thai sản thì Nhật Bản chỉ dừng lại ở con số 50%, thấp hơn rất nhiều so với những nước này. Thị trường lao động của Nhật Bản cũng không có tính mềm dẻo giống như các nước trong cộng đồng nói tiếng Anh khi họ có những chế độ đãi ngộ hợp lý cho nhân viên làm theo thời vụ. Ngay cả những chính sách liên quan đến hỗ trợ tài chính hay trợ giúp cân bằng giữa chăm sóc con cái và công việc thì Nhật Bản cũng thua kém Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp hay các nước Bắc Âu. Vì vậy có thể khẳng định rằng, một trong những nguyên nhân làm cho Nhật Bản dù có cố gắng đến đâu cũng không thể thoát khỏi “quốc gia siêu già hóa” một phần là do Chính phủ vẫn chưa có sự đầu tư đúng mức đến các chính sách gia đình[4].

Bên cạnh đó, chế độ hưu trí cũng là một vấn đề mà chính phủ Nhật Bản cần xem xét lại. Theo chế độ “Đối tượng được bảo hiểm số 3” thì phụ nữ làm nội trợ hoặc làm việc thời vụ sẽ không phải đóng tiền bảo hiểm xã hội nhưng vẫn được nhận lương hưu. Đồng thời, chế độ “Khấu trừ người phối ngẫu” ra đời giúp giảm gánh nặng về thu nhập cá nhân cho các gia đình có vợ làm nội trợ. Tuy nhiên, xét cho đến cùng thì cả hai chính sách này đều nhằm thúc đẩy sự phân công lao động theo giới - “Chồng làm việc bên ngoài, vợ ở nhà làm nội trợ”. Chế độ này được cho là ưu việt và phù hợp với bối cảnh xã hội Nhật Bản giai đoạn “xã hội kết hôn/ giai kon”, nhưng không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay. Thêm vào đó, khi xem xét các chính sách già hóa dân số của Nhật Bản thì hầu hết đều là các chính sách gia đình. Có nghĩa là đối tượng của nó chỉ bó hẹp trong phạm vi của người có gia đình, có kết hôn. Trong khi, các vấn đề quan trọng được coi là một trong những nguyên nhân mang tính kinh tế như sự gia tăng số lượng người làm việc phi chính thức dẫn đến không kết hôn như hiện nay thì việc quan tâm hơn đến cải thiện tình trạng việc làm của giới trẻ lại chưa được chú ý.

Tuy nhiên, sự thay đổi của cơ cấu kinh tế, suy thoái kinh tế hay thiếu sót của chính sách xã hội cũng chỉ là những nguyên nhân mang tính khách quan. Chúng ta có thể thấy được những nguyên nhân nói ở trên chưa đủ tính quyết định dẫn đến khuynh hướng kết hôn muộn và không kết hôn ở Nhật Bản hiện nay. Thứ nhất, nếu nói suy thoái kinh tế là lý do quan trọng nhất dẫn đến suy giảm tỷ lệ kết hôn thì chưa đủ thuyết phục. Một ví dụ điển hình, cuộc sống của người Việt Nam hiện tại kém hơn rất nhiều so với người Nhật, nhưng phần lớn mọi người đều kết hôn còn người Nhật lại đang tiến tới không kết hôn. Mặt khác, tại sao hiện tượng kết hôn muộn lại xuất hiện ngay từ những năm 70 khi nền kinh tế còn đang phát triển rất ổn định? Điều này chứng tỏ vấn đề về tài chính không hẳn đã là quan trọng. Tiếp theo, về chính sách quốc gia, dù chính phủ có nỗ lực giải quyết đến đâu thì các chính sách đưa ra cũng chỉ mang tính hỗ trợ, người chịu trách nhiệm chăm sóc con cái không ai khác vẫn là những người đã sinh chúng ra, tức là cha mẹ chúng. Bởi vì sau khi sinh con ra, cha mẹ không thể bỏ mặc con cái, phó thác tất cả cho Chính phủ. Thứ ba là về giả thuyết nguyên nhân dẫn đến kết hôn muộn, không kết hôn là do sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Sự ra đời của xã hội hậu công nghiệp lấy dịch vụ làm trọng tâm đã thúc đẩy sự tiến thân của phụ nữ. Nếu vậy, vấn đề sẽ chỉ dừng lại ở kết hôn muộn, độ tuổi kết hôn có tăng lên đi nữa thì đến một lúc nào đó, mọi người cũng sẽ kết hôn sinh con. Vì thế, nó không phải là những lý do chính dẫn tới không kết hôn và kết hôn muộn ở Nhật Bản hiện nay.

Bùi Bích Vân, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn