GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG TIẾT KIỆM BƯU ĐIỆN NHẬT BẢN

Đăng ngày: 13-03-2018, 17:11

Theo xu hướng của nhiều quốc gia trên thế giới, Nhật Bản từ lâu đã cung cấp dịch vụ gửi tiền tiết kiệm thông qua hệ thống bưu điện. Hệ thống tiết kiệm bưu điện của Nhật Bản (yubin-chokin, hay còn gọi là yu-cho) với 240 nghìn tỷ yên (vào tháng 7 năm 2002) không chỉ là hệ thống tiết kiệm bưu điện lớn nhất thế giới về lượng tiền gửi mà còn là tổ chức tài chính lớn nhất thế giới, với lượng tiền gửi tiết kiệm cá nhân và hộ gia đình nhiều hơn tất cả các ngân hàng thương mại Nhật Bản cộng lại.

Ngay từ thế kỷ 19, hệ thống tiết kiệm bưu điện của Nhật Bản đã đóng một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, với tư cách như một nơi thu thập tiền tiết kiệm trong nước và cung cấp dịch vụ tài chính cho người có thu nhập trung bình và người nghèo, đồng thời là phương tiện để xây dựng nguồn vốn của quốc gia. Hình thức gửi tiết kiệm thông qua bưu điện được giới thiệu lần đầu vào năm 1875 đã không được xã hội đón nhận bởi thời kỳ này chịu ảnh hưởng nhiều từ tư tưởng, nhận thức của giới quý tộc phong kiến vào cuối thời Edo của thế kỷ 19. Có một câu nói phổ biến ở thời kỳ này là "cố gắng để có được một cent từ ngày này sang ngày khác là điều đáng xấu hổ". Thời điểm đó ở Nhật Bản, tại thành phố cũng như nông thôn, không có bất kỳ ngân hàng tiết kiệm hoặc ngân hàng thương mại nào để tiết kiệm cá nhân. Các hộ gia đình thường tiết kiệm bằng tiền mặt hoặc hiện vật có giá trị để dùng khi có việc khẩn cấp hay các sự kiện đặc biệt. Vào thế kỷ 19, người dân gặp nhiều khó khăn để đi đến các ngân hàng và các ngân hàng vẫn chưa có hệ thống bảo vệ hiện đại về tiền gửi. Từ đó đặt ra yêu cầu cần thiết có một hệ thống ngân hàng tại chính các bưu điện.

Maejima Hisoka, người thành lập hệ thống bưu chính quốc gia của Nhật Bản năm 1871, vào giai đoạn đầu của Nhật Bản cận đại thời Meiji (1868-1912), đã giới thiệu một hệ thống tiết kiệm bưu điện ở Nhật Bản mà ông dựa trên quan sát trực tiếp của chính mình về hệ thống tiết kiệm bưu điện của Anh. Với những nỗ lực của Maejima Hisoka, vào tháng 5 năm 1875, chi nhánh bưu điện đầu tiên chấp nhận tiền gửi tại 18 địa điểm tại trung tâm thành phố Tokyo và tại một văn phòng ở Yokohama. Số lượng bưu điện nhận tiền gửi tiết kiệm nhanh chóng mở rộng ra các vùng nông thôn và dần hình thành mạng lưới bưu điện rộng khắp trên phạm vi cả nước chỉ trong vòng 2 năm. Nhật Bản là nước thứ tư trên thế giới và là nước đầu tiên trong nền kinh tế châu Á thiết lập được tiết kiệm bưu điện. Hệ thống tiết kiệm bưu điện của Nhật Bản được khởi xướng vào đúng thời điểm Nhật Bản thoát khỏi thời kỳ phong kiến và bế quan, từng bước khôi phục chủ quyền kinh tế.

Cũng vào thời kỳ này, chính phủ Nhật Bản đã có nhiều biện pháp huy động nguồn vốn tiết kiệm trong nước để xây dựng ngành công nghiệp, đường sắt, vận tải và viễn thông và đặc biệt là phát triển quân đội. Nhờ đó, Nhật Bản đã có thể từ bỏ gần như tất cả các khoản vay nước ngoài cho việc phát triển quân sự và cơ sở hạ tầng trong 20 năm tiếp theo (cho đến khi xảy ra chiến tranh Nga - Nhật). Có thể nói, việc thiết lập hệ thống tiết kiệm bưu điện vào đúng thời điểm quan trọng trong lịch sử đã cung cấp cho Nhật Bản một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội trong tương lai, giúp chính phủ Nhật Bản có đủ tài chính cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng thời kỳ đó và trở thành một cường quốc kinh tế sau này.

Các mẫu tem ký gửi tiền tiết kiệm bưu điện và áp phích quảng cáo cuối thời Meiji và Taisho (1900-1925) được bưu điện sử dụng để khuyến khích các cá nhân tiết kiệm cho sự thịnh vượng của cá nhân đó trong tương lai và cho sự thịnh vượng và phát triển của đất nước. Một trong những điểm đặc biệt của hệ thống tiết kiệm bưu điện thời bấy giờ đó là việc chấp nhận khoản tiền gửi nhỏ chỉ bằng một nửa 1 cent (1 yên = 100 cent)[1].

Năm 1885, Bộ trưởng Tài chính Meiji Matsukata khi đó đã sử dụng quỹ tiết kiệm bưu điện dưới sự kiểm soát của Bộ Tài chính trực tiếp đầu tư vào các mục tiêu quốc gia về xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp, giao thông, quân sự và thực hiện chính sách chống lạm phát. Đến năm 1883, khi sự thành công của hệ thống tăng lên, tổng số các khoản tiền gửi nhỏ đã tích lũy đạt đến 9% trong số tiền gửi ngân hàng thông thường của Nhật Bản, và đến năm 1897 tiết kiệm bưu chính chiếm gần 13% tiền gửi ngân hàng thông thường.

Những cuộc bạo động về thuế sau Chiến tranh Nga-Nhật (1905) khiến Chính phủ Nhật Bản tăng cường các biện pháp nhằm huy động các dân chúng gửi tiết kiệm để đáp ứng nhu cầu về tài chính. Các chiến dịch tăng tiền gửi tiết kiệm bưu điện và thúc đẩy tiết kiệm đã giúp tiền gửi tiết kiệm bưu điện tăng 390% từ năm 1905 đến năm 1914 (so với mức tăng 120% tiền gửi ngân hàng thông thường trong cùng thời kỳ). Số người gửi tiền tiết kiệm bưu điện cũng tăng từ 12% lên 23% dân số. Các chiến dịch huy động tiền gửi tiết kiệm bưu điện sau đó được khởi xướng vào những thời điểm khác nhau nhằm giải quyết từng vấn đề cụ thể. Ví dụ, trong thời kỳ lạm phát sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, một chiến dịch đã được đưa ra nhằm khuyến khích các khoản tiết kiệm để ngăn chặn chi tiêu và hấp thụ thanh khoản vượt trội do chiến tranh gây ra. Tiết kiệm bưu điện thời kỳ đó chiếm 13% tổng tiền gửi ngân hàng thương mại. Đến năm 1919, tiền gửi tiết kiệm bưu điện đã trở thành nguồn lực tài chính lớn nhất của chính phủ, trong bối cảnh phát sinh thường xuyên các cuộc nổi dậy phản đối thuế nông nghiệp, việc thu thuế trực tiếp được cho là phản tác dụng và không đáng tin cậy.

Khi kinh tế Nhật Bản phát triển hơn, hệ thống tiết kiệm bưu điện đã có thể ứng phó và thích ứng được với những tình huống phát sinh của nền kinh tế. Bên cạnh vấn đề lạm phát, hệ thống tiết kiệm bưu điện đã giúp chính phủ đối mặt với nhiều vấn đề khác bao gồm việc thúc đẩy, hỗ trợ tư nhân hóa cho các ngành công nghiệp mới và đang phát triển; phát triển và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng; đẩy mạnh nền kinh tế trong thời kỳ suy thoái và đôi khi ổn định thị trường vốn và cung cấp ngân sách cho quỹ chống lạm phát của chính phủ. Tiền gửi tiết kiệm bưu chính tăng đặc biệt trong thời kỳ giảm phát, 1881-1887, 1925-31, và 1990-1992. Tuy nhiên, về mặt lịch sử, mục tiêu hàng đầu của nó là duy trì sự phát triển kinh tế bền vững.

Trước sự suy thoái mạnh của hệ thống các ngân hàng thương mại tại Nhật Bản, tiết kiệm bưu điện, một dạng tổ chức phi ngân hàng, vẫn tiếp tục phát triển, đến năm 1937, tổng số tiền gửi mà hệ thống này sở hữu đã gần bằng 1/3 số tiền gửi tại các ngân hàng thương mại. Trước năm 1943 Bộ tài chính yêu cầu chuyển đổi phần lớn các ngân hàng tiết kiệm thành ngân hàng thương mại để lập ngân sách trung gian cho sản xuất vũ khí phục vụ chiến tranh. Tuy nhiên, tiết kiệm bưu điện không phải chịu bất kỳ ảnh hưởng nào. Chỉ năm ngân hàng tiết kiệm sau khi được sát nhập hoặc chuyển đổi thành ngân hàng thương mại vào năm 1949 còn hoạt động tính tới trước thời điểm chấm dứt chiến tranh.

Kể từ thời kỳ hậu chiến cho đến cuối tháng 03/2001, toàn bộ số tiền tiết kiệm bưu điện gửi vào Qũy ủy thác đầu tư của Bộ Tài chính lần lượt được bổ sung cho Chương trình Cho vay và Đầu tư tài chính (FILP) (zaisei toyushi hay còn gọi là “hệ thống zaito”) do Bộ này quản lý. Trong suốt thời gian từ 1950 – 1980, đối tượng chính mà Chương trình hướng tới là các tổ chức tài chính dựa theo chính sách như Ngân hàng Phát triển Nhật Bản (JDP). Các tổ chức này chịu trách nhiệm phân bổ nguồn vốn phục vụ phát triển công nghiệp nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển vùng và quốc gia. Vào những năm 1950, FLIP tiến hành giải ngân để tái cơ cấu các ngành điện lực, khai thác than, vận tải biển và công nghiệp sắt, thép. Thời kỳ cuối thập niên 50, đầu thập niên 60, Chương trình chuyển hướng sang bắt kịp các nước phát triển về sản xuất sợi tổng hợp, lọc dầu, điện hạt nhân, máy móc và công nghiệp điện tử. Mười năm sau đó, FILP lại tập trung vào các lĩnh vực như phúc lợi xã hội, các vấn đề môi trường trong phát triển quỹ đất ở và đô thị, chống ô nhiễm, các cơ sở phúc lợi xã hội, đường sắt, và đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghệ mới. Giai đoạn những năm cuối 1970, đầu 1980, chính sách năng lượng nhận được sự quan tâm đặc biệt từ Chương trình nhằm bảo tồn và phát triển các nguồn năng lượng thay thế.

Tiết kiệm cá nhân luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số tiết kiệm chung của Nhật Bản. Tính đến tháng 03/1998, tổng số cổ phần tiền gửi tiết kiệm hộ gia đình mà tiết kiệm bưu điện sở hữu đã lên tới 36%, lớn hơn giá trị cổ phần tiền gửi tiết kiệm hộ gia đình liên kết của các ngân hàng thành phố tại Nhật Bản. Kể từ cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra vào năm 1990, phần lớn các khách hàng cá nhân và hộ gia đình tại các ngân hàng thương mại đã rút lại tiền và gửi tiết kiệm bưu điện để đảm bảo an toàn. Nhờ đó, hệ thống tiết kiệm bưu điện của Nhật đã tạo được quỹ tiền gửi khổng lồ và trở thành tổ chức tài chính lớn nhất trên thế giới[2].

Thành công của hệ thống tiết kiệm bưu điện được tạo nên một phần nhờ dịch vụ hỗ trợ khách hàng nhanh và hiệu quả. Với hơn 24.737 bưu điện rải khắp cả nước để tối ưu hóa chức năng gửi tiền tiện ích, vượt xa so với con số 16.000 chi nhánh của tất cả 110 ngân hàng, tổ chức tiền gửi tiết kiệm, cho vay và các tổ chức tài chính khác của Nhật. Ở Nhật, trong số 3.235 quận, huyện, thành phố có điểm bưu điện, thì có tới 567 quận, huyện, thành phố không có ngân hàng. Bên cạnh đó với số lượng khoảng 25.184 cây ATM (03/2000) trên khắp cả nước phục vụ công tác gửi tiền, rút tiền, thanh toán bằng thẻ tín dụng, thanh toán hóa đơn hay chuyển khoản nhanh chóng và tiện lợi mà không tính phí như các ngân hàng, hệ thống tiết kiệm bưu điện đã hoàn toàn áp đảo các ngân hàng tư nhân tại Nhật[3].

Bưu điện từ lâu đã đứng ra cung ứng các sản phẩm như bảo hiểm nhân thọ (từ năm 1916) và kế hoạch hưu trí (bao gồm cả lĩnh vực không thuộc tiết kiệm bưu điện), và các dịch vụ thanh toán (giro, từ năm 1906; Bưu phiếu: 1875), trong khi đó các công ty tư nhân của Nhật mới chỉ tiếp cận bước đầu với các dịch vụ này trong vài năm trở lại đây.

Văn hóa Nhật Bản là nền văn hóa không thích đối mặt với rủi ro, sự an toàn và tính ổn định là hai nhân tố chính chi phối quyết định gửi tiết kiệm của người dân. Tiết kiệm bưu điện không những đóng góp cho sự ổn định kinh tế của các cá nhân nói riêng và của quốc gia nói chung mà nó còn giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. của người dân. Hiện nay có khoảng 85% dân số Nhật Bản có tài khoản tiền gửi tiết kiệm bưu điện.

Vũ Phương Hoa

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

[1] Mark J. Scher, Policy Challenges and the Reform of Postal Savings in Japan

[2] Reforming Government-Backed Financial Institutions: The battle for postal savings reform  in Japan

http://www.agi.or.jp/workingpapers/WP2005-17.pdf

[3] Tại sao người Nhật phải đau đầu cải cách "thùng thư" của mình?

http://cafebiz.vn/cau-chuyen-kinh-doanh/tai-sao-nguoi-nhat-phai-dau-dau-cai-cach-thung-thu-cua-minh-20151102164237488.chn

Tin tức khác

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản tăng đáng kể lên 2.758,78 tỷ yên vào tháng 1 năm 2025 từ 1.766,54 tỷ yên cùng kỳ năm trước, vượt quá sự đồng thuận ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025

Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng vọt lên 130,94 tỷ yên vào tháng 12 năm 2024 từ 32,35 t ...

CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG

Các khoản vay tiêu dùng tăng vọt và tiền lương trì trệ dẫn đến khó khăn tài chính kỷ lục trong các hộ gia đình. Ngày càng nhiều người Nhật phải vật ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản giảm xuống còn 117,62 tỷ yên vào tháng 11 năm 2024 từ mức 813,87 yên cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức thâm hụt thươ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn