GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

THÀNH TỰU CỦA ABENOMICS ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN TRONG NHIỆM KỲ 2012-2018 CỦA THỦ TƯỚNG SHINZO ABE (phần 1)

Đăng ngày: 29-09-2018, 15:23

Bối cảnh ra đời

Nếu như “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” là tham vọng của Tổng thống Mỹ Donald Trump, “Phục hưng Trung Hoa vĩ đại” là “giấc mơ” của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, thì với quyết tâm hồi sinh nền kinh tế trì trệ kéo dài trong nhiều thập niên, nhà lãnh đạo nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới - Thủ tướng Nhật Bản Abe đã đề ra học thuyết kinh tế “Abenomics”[1].

Về bối cảnh hình thành Abenomics, có thể thấy rằng sau bong bóng thị trường bất động sản và chứng khoán đầu những năm 1990, kinh tế Nhật Bản đã trải qua nhiều thập niên “mất mát”. Các công ty tập trung cắt giảm nợ, thu hẹp đầu tư và di chuyển sản xuất ra nước ngoài. Thất nghiệp gia tăng nhanh qua từng năm. Người dân hạn chế tiêu dùng, giá cả hàng hóa giảm sút, kết quả là nền kinh tế rơi vào giảm phát triền miên. Trợ cấp an sinh xã hội tăng lên do lão hóa dân số, nhưng tiền lương thực tế lại không tăng do giảm phát. Trong khi đó, để bù đắp cho thâm hụt tài chính, nợ công của chính phủ tăng cao. Thiên tai liên tiếp, trong đó có thảm họa động đất sóng thần và sự cố hạt nhân 2011 càng làm trầm trọng hơn những khó khăn kinh tế. Những thách thức về chiến lược tăng trưởng của một xã hội đang phải đối mặt với khủng hoảng về nhân khẩu học do dân số lão hóa và tỷ lệ sinh thấp cũng liên hệ trực tiếp đến sự xáo trộn chính trường Nhật Bản với sự ra đi liên tiếp của một loạt các thủ tướng, trong đó có chính bản thân ông Shinzo Abe (2006-2007). Nhật Bản đã trải qua thời kỳ lãnh đạo liên tục thay đổi, khi có tới 9 thủ tướng chỉ trong 2 năm từ 1989 đến 2001 và 5 thủ tướng trong vòng 5 năm trước khi ông Abe quay lại nhiệm kỳ 2 vào cuối 2012.

Trải qua vài thập kỷ, Nhật Bản cuối cùng cũng đã có một chính quyền ổn định. Sau nhiệm kỳ đầu không mấy thành công, ông Abe đã rút ra được bài học từ những sai lầm trước đây và quyết định tập trung vào kinh tế trong nhiệm kỳ thứ hai. Ngay sau khi tái nhậm chức Thủ tướng ông Abe đã thực hiện một kế hoạch táo bạo nhằm vực dậy nền kinh tế. Đến nay quá trình thực hiện Abenomics đã trải qua quãng thời gian gần 5 năm và 9 tháng.

Nội dung của Abenomics

Với cách nói ẩn dụ về "ba mũi tên", Abenomics truyền tải thông điệp rằng hiệu ứng từ sự kết hợp một loạt các chính sách khác nhau sẽ đưa nền kinh tế Nhật thoát ra khỏi quỹ đạo ảm đạm kéo dài đã vài thập kỷ.

Mũi tên thứ nhất của Abenomics - Chính sách tiền tệ táo bạo, hay nói cách khác là chính sách nới lỏng tiền tệ đã được thực thi thông qua một số biện pháp cụ thể như mục tiêu lạm phát, phá giá đồng yên, chính sách lãi suất âm và sửa đổi luật ngân hàng...

Lý giải về lạm phát mục tiêu, xác định nguyên nhân lớn nhất của suy thoái kinh tế là giảm phát (khiến "đồng tiền khó tuần hoàn trong nền kinh tế", trong khi nhờ vào sự luân chuyển của đồng tiền mà nền kinh tế có sức sống), giải pháp đầu tiên mà Abenomics hướng tới là thúc đẩy lạm phát. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) đã tiến hành điều chỉnh lãi suất và các công cụ chính sách tiền tệ khác để lạm phát của Nhật Bản xoay quanh mức 2%/ năm. Khi lạm phát diễn ra, hàng hóa tăng giá, điều này giúp lợi nhuận của các công ty tăng lên, các công ty gia tăng đầu tư, công ăn việc làm được tạo ra thêm, lương người lao động tăng, tiêu dùng được mở rộng, nhờ vậy kinh tế có thể hồi phục. Mức lạm phát 2% đối với Nhật Bản được xem là tối ưu để khuyến khích các công ty đầu tư và người tiêu dùng chi tiêu, đồng thời cũng đủ thấp để tránh làm dấy lên cuộc khủng hoảng siêu lạm phát từng làm tê liệt nền cộng hòa Weimar (nước Đức) những năm 1920, và Zimbabwe thời gian gần đây.

Ngoài ra, bằng việc phá giá khiến cho đồng yên yếu hơn sẽ làm tăng lợi nhuận của các nhà xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Nhật Bản trên thị trường nước ngoài, đặc biệt là châu Âu và Mỹ. Lãi suất ngắn hạn âm - 0,1% sẽ khuyến khích các ngân hàng thương mại cho vay, và việc sửa đổi luật ngân hàng ngân hàng sẽ thúc đẩy mua vào trái phiếu chính phủ.

Mũi tên thứ hai của Abenomics là chính sách tài khóa linh hoạt. Nói một cách đơn giản, chính sách tài khóa nghĩa là chính phủ sẽ quyết định ngân sách và sử dụng số tiền đó. Trường hợp của Abenomics, ngân sách được rót cho các "công trình công cộng" quy mô lớn như đường xá, cầu, đường hầm… Khi các công ty xây dựng có được lợi nhuận, việc làm được tạo ra, lương tăng khiến tiêu dùng được mở rộng. Như vậy là bằng việc tăng lượng cung tiền và tăng chi tiêu công, lưu thông tiền tệ được kích hoạt, qua đó cải thiện nền kinh tế.

Mũi tên thứ ba của Abenomics - chiến lược tăng trưởng thúc đẩy đầu tư tư nhân là một chương trình cải cách cơ cấu. Đây là một nội dung hết sức quan trọng của Abenomics, giúp giải phóng khả năng cạnh tranh cũng như tính năng động vốn bị kìm hãm quá lâu của các doanh nghiệp và người lao động Nhật Bản[2]. Nhìn chung có thể thấy rằng mũi tên này tập trung chủ yếu vào bốn điểm: thúc đẩy đầu tư tư nhân, tăng cường kết nối với nền kinh tế toàn cầu, tăng cường nguồn nhân lực và tạo thị trường mới. Thúc đẩy đầu tư bao gồm giảm thuế doanh nghiệp, tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (bởi nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ “có sức khỏe”, toàn bộ nền kinh tế cũng trở nên “khỏe mạnh”), khu vực tư nhân được ủy quyền vận hành các công trình công cộng. Việc tăng cường kết nối với nền kinh tế toàn cầu bao gồm thúc đẩy số lượng khách du lịch nước ngoài đến Nhật Bản; khiến cho môi trường kinh doanh hoạt động ở thị trường nước ngoài thuận lợi, dễ dàng hơn (chìa khóa quan trọng của mũi tên thứ ba này chính là việc tham gia các hiệp định thương mại tự do như TPP); ngoài ra là vấn đề đáp ứng nhu cầu to lớn về cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển hiện nay.

Về khía cạnh tăng cường nguồn nhân lực, Abenomics tập trung vào việc cung cấp một môi trường để phụ nữ phát huy tốt hơn khả năng, tạo thuận lợi cho thanh niên Nhật có nguyện vọng du học, thiết lập môi trường giúp chủ động tuyển dụng lao động ưu tú nước ngoài, hỗ trợ người lao động thay đổi hay lựa chọn công việc phù hợp. Về khía cạnh tạo thị trường mới, mũi tên thứ ba này cũng chú ý tới các lĩnh vực như năng lượng (điện lực), thương mại trực tuyến, nông nghiệp quy mô lớn…

Vài nét về phiên bản 3 mũi tên mới và mũi tên thứ tư

Đặc biệt trong giai đoạn 2 từ 10/2015, Abenomics tập trung cụ thể vào các mục tiêu kinh tế tăng trưởng mạnh (GDP đạt mức 600 ngàn tỷ Yên năm 2020), tăng cường hỗ trợ sinh đẻ và nuôi dạy trẻ (nhằm duy trì dân số 100 triệu trong 50 năm tới), cải thiện an sinh xã hội (nhằm giảm gánh nặng già hóa lên hệ thống phúc lợi xã hội). Ngoài ra, cũng đã có không ít ý kiến về mũi tên thứ tư của Abenomics liên quan đến "kiện toàn tài chính”, hay "dữ liệu mở" (open data). Vào tháng 9/2013 Thủ tướng Abe cũng đã từng phát biểu rằng "hiệu quả kinh tế của Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 theo ý nghĩa nhất định có thể trở thành mũi tên thứ tư của Abenomics.

Đỗ Ánh

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Tin tức khác

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản tăng đáng kể lên 2.758,78 tỷ yên vào tháng 1 năm 2025 từ 1.766,54 tỷ yên cùng kỳ năm trước, vượt quá sự đồng thuận ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025

Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng vọt lên 130,94 tỷ yên vào tháng 12 năm 2024 từ 32,35 t ...

CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG

Các khoản vay tiêu dùng tăng vọt và tiền lương trì trệ dẫn đến khó khăn tài chính kỷ lục trong các hộ gia đình. Ngày càng nhiều người Nhật phải vật ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản giảm xuống còn 117,62 tỷ yên vào tháng 11 năm 2024 từ mức 813,87 yên cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức thâm hụt thươ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn