GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

THÀNH TỰU CỦA ABENOMICS ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN TRONG NHIỆM KỲ 2012-2018 CỦA THỦ TƯỚNG SHINZO ABE (phần 2)

Đăng ngày: 29-09-2018, 15:35

Những thành tựu nổi bật của Abenomics trong nhiệm kỳ 2 của Thủ tướng Abe

Trong cuộc bầu cử sớm vào tháng 10/2017, ông Abe đã giành chiến thắng áp đảo và trở thành thủ tướng Nhật Bản tại nhiệm lâu nhất kể từ sau Thế chiến II (là thủ tướng thứ 96,97,98 liên tiếp của Nhật Bản). Hiện tại ông Abe cũng đang nhận được tỷ lệ ủng hộ cao nhất trong số các ứng viên của cuộc bầu cử chủ tịch đảng cầm quyền LDP tổ chức vào ngày 20/9[3]. Bầu chủ tịch đảng LDP thực tế chỉ là một cuộc bầu chọn của nội bộ đảng, tuy nhiên lần này đây gần như một cuộc bầu cử quyết định ai sẽ là thủ tướng tương lai tới đây của Nhật Bản. Là đối thủ lớn nhất của Thủ tướng Abe - nguyên Tổng thư ký đảng LDP, người từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nhật Bản - ông Shigeru Ishiba mặc dù vậy cũng phải đưa ra phát biểu công nhận những hiệu quả tích cực của chính sách Abenomics đối với nền kinh tế Nhật Bản[4].

Mặc dù có không ít tiếng nói từ phía các đảng đối lập và chuyên gia tài chính chỉ trích Abenomics, thậm chí cho rằng Abenomics đã thất bại, tuy nhiên rõ ràng việc ông Abe nhận được từ người dân và nội bộ đảng cầm quyền sự tín nhiệm như vậy không phải là ngẫu nhiên. Và chắc chắn đa số người Nhật đều không mong muốn viễn cảnh phải quay trở lại quỹ đạo kinh tế ảm đạm bao trùm khắp đất nước trước khi có “Abenomics”. Đặc biệt các số liệu cơ bản về nền kinh tế Nhật cũng thực sự đáng khích lệ. Sau đây là những biến chuyển lớn của nền kinh tế Nhật Bản sau khi Abenomics được thực thi.

Kinh tế có dấu hiệu phục hồi rõ rệt

Theo số liệu mới nhất được Văn phòng Nội các Nhật Bản công bố ngày 10/8/2018, tăng trưởng GDP Nhật Bản trong quý từ tháng 4-6 là 0,5%, tương đương 1,9%/năm[5], đã có sự tích cực trở lại sau quý từ tháng 1-3 tăng trưởng âm bởi ảnh hưởng của thời tiết khắc nghiệt. Tiêu dùng cá nhân cũng đã phục hồi trở lại.

Vào thời điểm đúng 5 năm sau khi chính sách Abenomics được thực hiện, có thể thấy kinh tế Nhật Bản đang ở trong giai đoạn tăng trưởng liên tục dài nhất trong gần 30 năm trở lại. GDP thực tế đã tăng 6,3% so với trước Abenomics. Đặc biệt GDP danh nghĩa sau 5 năm đã tăng trưởng hơn 10%, cho thấy suy thoái kinh tế đã có sự chuyển biến chắc chắn.

THÀNH TỰU CỦA ABENOMICS ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN TRONG NHIỆM KỲ 2012-2018 CỦA THỦ TƯỚNG SHINZO ABE (phần 2)

Ngoài ra, để đánh giá một nền kinh tế có tăng trưởng hay không cần phải xem xét đến chỉ số chứng khoán. Một trong những hiệu quả chắc chắn mà Abenomics mang lại chính là thúc đẩy thị trường chứng khoán Nhật Bản tăng trưởng, trái với bức tranh màu xám chung của chứng khoán khu vực và thế giới. Chỉ trong khoảng 5 năm, chỉ số Nikkei đã tăng hơn hai lần, xác thực rõ hơn về một giai đoạn tăng trưởng được nhìn nhận là dài thứ hai sau chiến tranh (kể từ thời kỳ bùng nổ bùng nổ tăng trưởng Izanagi kéo dài 57 tháng từ tháng 11/1965-7/1970). Trước khi Abenomics được thực hiện giá cổ phiếu Nhật Bản đã có lúc rớt xuống mức 8,664 Yên, hiện tại đã tăng lên 22.865 Yên (giá đóng cửa ngày 1/9/2018)[6]. Vào đầu 2018, chỉ số Nikkei từng đạt tới mức trên 24.000 Yên. Đây là lần đầu tiên chỉ số chứng khoán Nhật Bản quay trở lại ngưỡng 24.000 Yên của 26 năm trước đây.

Thực tế giá cổ phiếu không chỉ liên quan đến nhà đầu tư cổ phiếu mà còn ảnh hưởng đến đời sống đa phần lớn người dân. Tại Nhật Bản giá cổ phiếu có liên hệ hết sức chặt chẽ tới việc đảm bảo quỹ hưu trí. Do quỹ hưu trí được đầu tư vào chứng khoán, bởi vậy khi lợi tức của chứng khoán tăng lên cũng đồng nghĩa với việc quỹ hưu trí được tăng cường. Cũng liên quan đến vấn đề ổn định quỹ lương hưu, 5 năm sau khi Abenomics được thực thi lợi nhuận vận dụng quỹ lương hưu công trong 5 năm nhiệm kỳ thứ 2 của thủ tướng Abe đã tăng lên 46 ngàn tỷ Yên, và quỹ lương hưu của khối doanh nghiệp đã tăng thêm 29 ngàn tỷ Yên

Tình hình tài chính được cải thiện

Tổng thu chi của nhà nước và địa phương đã tăng lên khoảng 22 ngàn tỷ Yên trong 5 năm cầm quyền của Abe. Cán cân tài chính được cải thiện cân rõ rệt nhờ vào chính sách đẩy lùi giảm phát, thâm hụt ngân sách giảm mạnh từ 8,8% xuống 2,8%.

Tạo thêm cơ hội việc làm

Mục đích cuối cùng của chính sách kinh tế là đảm bảo đời sống người dân. Với ý nghĩa như vậy thì bảo đảm công ăn việc làm, đặc biệt là cho giới trẻ là vấn đề cốt lõi nhất, thậm chí còn quan trọng hơn cả mục đích tăng trưởng GDP hay tăng thu ngân sách. Không chỉ riêng Nhật Bản, ngay cả tại Mỹ hay châu Âu vấn đề việc làm cũng được đặt lên hàng đầu, bởi không có công ăn việc làm không chỉ là yếu tố tạo ra sự bất mãn của người dân mà còn là nguyên nhân của nhiều bất ổn, trong đó có cả bất ổn chính trị. Liên quan đến vấn đề việc làm, sau 5 năm thực hiện Abenomics tỷ lệ tuyển dụng tại Nhật Bản đã đạt đến mốc cao vượt trội, và mức cao này cũng lần đầu diễn ra đồng thời ở tất cả các địa phương trong cả nước, kể cả những khu vực như Okinawa hay Kochi-ken. Theo số liệu chính thức được công bố ngày 26/12, tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản đã giảm xuống mức thấp nhất trong 23 năm kể từ tháng 11/1993. Quan sát bảng dưới đây có thể thấy, tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật Bản giảm từ 4,3% trước đó xuống còn 2,8% vào khoảng cuối nhiệm kỳ 2 của Thủ tướng Abe.

Tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản

THÀNH TỰU CỦA ABENOMICS ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN TRONG NHIỆM KỲ 2012-2018 CỦA THỦ TƯỚNG SHINZO ABE (phần 2)

Hiện tại tỷ lệ việc làm/ứng viên đang ở mức 1,56, có nghĩa là có sẵn 156 việc làm cho mỗi 100 lao động tìm việc, mức cao nhất trong gần 44 năm qua.

Tỷ lệ tuyển dụng của sinh viên tốt nghiệp đại học từ 93,9% tháng 4 năm 2013 đến tháng 4 năm 2018 là 98%, trong đó tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học được tuyển dụng là 98,6, nam là 97,5, khối khoa học tự nhiên là 97,2%, khối khoa học xã hội là 98,2%. Đây là tỷ lệ tuyển dụng ở mức cao nhất từ trước đến nay. Trước đây vốn dĩ tại Nhật Bản có một tình trạng là sinh viên tốt nghiệp vào kỳ tuyển việc đầu năm tài chính (1/4 hàng năm) không xin được việc làm và phải tìm việc làm thêm tạm bợ. Giờ đây những thanh niên này có thể một lần nữa thi tuyển việc với cơ hội tăng hơn trước. Khi gần 100% có công ăn việc làm, giới trẻ Nhật Bản cũng có thể kỳ vọng nhiều hơn ở tương lai.

Mức lương danh nghĩa tháng 4/2018 đã tăng tháng thứ chín liên tiếp, theo số liệu được công bố bởi Bộ Lao động và An sinh xã hội Nhật Bản với mức tăng 0,8%. Mặc dù không ít ý kiến cho rằng đây là hiện tượng thiếu hụt lao động bắt nguồn từ vấn đề lão hóa dân số, sở dĩ các công ty của Nhật Bản buộc phải tăng lương cao hơn là để tìm kiếm và giữ chân công nhân. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng, nếu như tình hình kinh tế ảm đạm không mấy khả quan, các công ty không thể gia tăng cả số lượng tuyển lao động và tiền lương đồng loạt. Việc tăng lương sẽ khiến cho thu nhập hộ gia đình được mở rộng. Sự gia tăng nhu cầu trong nước thông qua gia tăng thu nhập hộ gia đình là nhân tố hết sức cần thiết cho quá trình phục của nền kinh tế.

Tạo môi trường để lao động nữ có thể phát huy năng lực

Sau 5 năm thực hiện Abenomics, số sinh viên nữ tốt nghiệp đại học có việc làm đã tăng thêm 1.520.000 người. Liên quan đến việc tăng cường các dịch vụ và cơ sở hạ tầng chăm sóc trẻ em, trong thời gian này cũng đã có thêm 600.000 chỗ học tại nhà trẻ và mẫu giáo, giúp giảm số lượng trẻ phải chờ suất để được  gửi vào các nhà trẻ, mẫu giáo.

Gia tăng xuất khẩu

Có thể nói xuất khẩu của Nhật Bản là một chìa khóa cho sự phục hồi kinh tế đất nước trong những năm gần đây. Đồng Yên giảm giá khoảng 30% trong thời gian qua cũng giúp cho giá hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản, đặc biệt là ô tô và sản phẩm điện tử… nâng cao được khả năng cạnh tranh trên các thị trường nước ngoài, đặc biệt là châu Âu và Mỹ. Đến tháng 6/2018 xuất khẩu của Nhật đã tăng tháng thứ 19 liên tiếp bất chấp sự gia tăng căng thẳng trong thương mại quốc tế thời gian gần đây[7].

Trong nhiệm kỳ thứ 2 của Thủ tướng Abe, Nhật Bản cũng đã hoàn thành các thỏa thuận về thương mại và đầu tư như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – phiên bản mới của TPP và Hiệp định Đối tác Kinh tế (EPA) Nhật Bản - EU. Trong bối cảnh điều kiện thương mại có triển vọng được cải thiện, có lợi cho các nhà xuất khẩu của Nhật Bản, mức độ lạc quan về nền kinh tế sẽ được nâng lên.

Biến du lịch trở thành một mũi nhọn của tăng trưởng kinh tế

Sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch Nhật Bản trong thời gian qua cũng có thể xem là một trong những kết quả thành công nhất của chính sách "Abenomics".

Vài năm gần đây chiến lược thúc đẩy ngành du lịch của chính quyền Thủ tướng Abe được đánh giá là đi đầu trong số các nền kinh tế phát triển. Nhật Bản đã trở thành điểm đến hấp dẫn, đặc biệt là với tầng lớp trung lưu đang gia tăng nhanh chóng ở châu Á. Ngay tuần đầu tiên khi ông Abe bắt đầu tái nhậm chức thủ tướng cuối 2012, lượng khách du lịch nước ngoài lập tức tăng lên 4 lần, từ mức trung bình 700.000 lượt/tháng lên 2,6 triệu lượt. Du khách nước ngoài đến Nhật Bản đạt mức cao kỷ lục vào năm 2017, đánh dấu năm thứ 5 liên tiếp với tốc độ tăng trưởng cao nhất các nước châu Á.

Chi tiêu của du khách nước ngoài tại Nhật Bản năm 2017 là 35,9 tỷ USD. Từ năm 2012 chi tiêu của khách du lịch chiếm gần 20% tăng trưởng tiêu dùng của Nhật Bản (chưa bao gồm phí nghỉ trọ). Đồng Yên giảm giá cũng có tác động rất lớn tới thói quen chi tiêu của khách du lịch. Tỷ giá hối đoái tăng mạnh ngay lập tức cắt giảm sức mua của khách và ngược lại. Khi đồng yên tăng giá khoảng 10% thì sẽ làm giảm 1,2% lượng khách du lịch và chi tiêu của mỗi khách du lịch cũng giảm khoảng 10%. Đồng yên thấp cũng đồng nghĩa với lợi nhuận cao hơn cho các nhà kinh doanh khách sạn của địa phương.

Vào dịp Thế vận hội Olympic Tokyo 2020 Nhật Bản đã đặt mục tiêu chào đón 40 triệu du khách quốc tế với số lượng chi tiêu 8.000 tỷ Yên. Mặc dù tăng hơn gấp đôi tiêu dùng của khách du lịch nước ngoài là một thách thức không nhỏ, nhưng nếu ngành du lịch tiếp tục duy trì mức tăng trưởng hiện nay Nhật Bản hoàn toàn có thể lạc quan về mục tiêu trên.

Kết luận:

Với "ba mũi tên" là nới lỏng tiền tệ, kích thích tài chính và cải cách cơ cấu, chính sách kinh tế Abenomics đã mang lại một số kết quả ban đầu rất đáng khích lệ. Nhiều phương diện quan trọng của nền kinh tế Nhật Bản được cải thiện rõ rệt. Những thành tựu của chiến lược "ba mũi tên" của Thủ tướng Abe trong nhiệm kỳ qua đã tạo ra được kỳ vọng về “sự hồi sinh” của nền kinh tế Nhật Bản.

Kết quả tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong hơn 5 năm qua của Nhật Bản có liên hệ tới một nhân tố tiên quyết, đó là sự ổn định chính trị. Nếu thắng cử nhiệm kỳ thủ tướng tiếp theo, Thủ tướng Abe sẽ có thể tiếp tục thực hiện những cải cách cơ cấu kinh tế cần thiết khác như nâng cao sáng tạo, tính hiệu quả, tính cạnh tranh và năng suất lao động, tạo một mạng lưới an toàn xã hội vững chắc hơn để sự thay đổi cấu trúc nền kinh tế không tạo thêm những hệ quả xã hội lớn.

Không chỉ giúp nâng cao vị thế của Nhật Bản trong khu vực và toàn cầu, những thành tựu của chính sách táo bạo Abenomics cũng như sự phục hồi vững vàng của nền kinh tế Nhật Bản mang một ý nghĩa rất lớn đối với các nước châu Á, khi Nhật Bản từ trước đến nay luôn là một đối tác thương mại và đầu tư và hợp tác quan trọng hàng đầu trong khu vực.

Đỗ Ánh

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

[1] Abenomics: Abe = Thủ tướng Abe, Economics = Kinh tế học, Học thuyết kinh tế. Người đầu tiên đưa ra tên gọi này là Hidenao Nakagawa, cựu Tổng thư ký LDP. Nguyên mẫu tên gọi thực ra bắt nguồn từ nước Mỹ: Reaganomics - một trong những thuyết kinh tế chủ đạo trong lịch sử phát triển kinh tế Mỹ mà Tổng thống Ronald Reagan từng đưa ra trong hai nhiệm kỳ tổng thống.

[2] Shinzo Abe, “Japan’s Vote for Bold Reform”, Project Syndicate, 05/01/2015

https://www.project-syndicate.org/commentary/japan-election-abenomics-structural-reform-by-shinzo-abe-2015-01?barrier=accesspaylog Truy cập 31/8/2018

[3] Nikkei Asian Review, “Abe seeks 3 more years, with polls showing 39% support”

https://asia.nikkei.com/Politics/Abe-seeks-3-more-years-with-polls-showing-39-support truy cập 31/8/2018

[4] 石破氏、小泉国会改革に理解=総裁選、首相との論戦に意欲(Ông Ishiba, Hiểu về cải cách quốc hội của Koizumi = bầu cử chủ tịch đảng, sẵn sàng tranh luận với Thủ tướng)

https://www.jiji.com/jc/article?k=2018070900951&g=pol   Truy cập 29/8/2018

[5] Quarterly Estimates of GDP for April - June 2018 (First Preliminary Estimates)

http://www.esri.cao.go.jp/en/sna/data/sokuhou/files/2018/qe182/pdf/main_1e.pdf, Truy cập 31/8/2018

[6] https://www.bbc.co.uk/news/topics/c55p555ng9gt/nikkei-225, truy cập ngày 1/9/2018

[7] Japan’s Exports Extend Growth Streak to 19 Months in June

https://www.bloomberg.com/news/articles/2018-07-18/japan-s-exports-extend-growth-streak-to-19-months-in-june Truy cập 30/8/2018

 

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Quý Long, “Cải cách Abenomics ở Nhật Bản”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 10/2017

2.みずほ総合研究所-アベノミクス5年と今後の政策課題(Viện Nghiên cứu Mizuho, “5 năm thực hiện Abenomics và những vấn đề chính sách trong thời gian tới”

https://www.mizuho-ri.co.jp/publication/research/pdf/urgency/report171221.pdf)

3. 日本経済、高度成長期の再現か…アベノミクスで企業業績が過去最高水準に

(Nền kinh tế Nhật Bản, liệu có phải đang tái hiện giai đoạn tăng trưởng cao ... Nhờ Abenomics doanh nghiệp đạt thành tích cao nhất từ trước đến nay

https://biz-journal.jp/2018/02/post_22180.html)

4. International Monetary Fund, “How to Reload Abenomics”, August 2, 2016

http://www.imf.org/en/news/articles/2016/08/02/13/00/na080216-how-to-reload-abenomics

5. Shiro Armstrong, “The Consequences of Japan’s Shrinking”, East Asia Forum, 15/05/2016

http://www.eastasiaforum.org/2016/05/15/the-consequences-of-japans-shrinking

6. Mike M. Mochizuki and Samuel Parkinson Porter (2013), “Japan under Abe: toward Moderation or Nationalism?” , The Washington Quarterly,  Vol. 36, No. 4

https://csis-prod.s3.amazonaws.com/s3fs-public/legacy_files/files/publication/TWQ_13Winter_Mochizuki-Porter.pdf

7. 安倍首相3選へ、アベノミクスの評価分かれる (Thủ tưởng Abe hướng tới bầu cử nhiệm kỳ thứ 3, Abenomics nhận được những đánh giá khác nhau) , https://business.nikkeibp.co.jp/atcl/report/15/238117/082300083

8. Shinzo Abe, “Japan’s Vote for Bold Reform”, Project Syndicate, 05/01/2015

https://www.project-syndicate.org/commentary/japan-election-abenomics-structural-reform-by-shinzo-abe-2015-01?barrier=accesspaylog

9. Koichi Hamada, ”The Renewed Promise of Abenomics,”Project Syndicate, 29/12/2014

https://www.project-syndicate.org/commentary/abenomics-next-steps-by-koichi-hamada-2014-12?barrier=accesspaylog


 

Tin tức khác

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản tăng đáng kể lên 2.758,78 tỷ yên vào tháng 1 năm 2025 từ 1.766,54 tỷ yên cùng kỳ năm trước, vượt quá sự đồng thuận ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025

Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng vọt lên 130,94 tỷ yên vào tháng 12 năm 2024 từ 32,35 t ...

CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG

Các khoản vay tiêu dùng tăng vọt và tiền lương trì trệ dẫn đến khó khăn tài chính kỷ lục trong các hộ gia đình. Ngày càng nhiều người Nhật phải vật ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản giảm xuống còn 117,62 tỷ yên vào tháng 11 năm 2024 từ mức 813,87 yên cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức thâm hụt thươ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn