GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 10 NĂM 2019

Đăng ngày: 29-11-2019, 17:31

Nền kinh tế Nhật Bản trong tháng 10/2019 tiếp tục có những tín hiệu không mấy khả quan. Dù  vậy, Thủ tướng Shinzo Abe vẫn quyết định ban hành chính sách tăng thuế tiêu dùng từ 8% lên 10% từ ngày 1/10. Lần tăng thuế tiêu thụ trước đó vào năm 2014 đã khiến nền cho nền kinh tế Nhật Bản gặp rất nhiều khó khăn do chi tiêu tư nhân giảm mạnh chưa từng thấy trong lịch sử vào Quý 2/2014. Trong lần tăng thuế tiêu thụ này, Chính phủ Nhật Bản đã lên kế hoạch cho một loạt các biện pháp đối phó tài khóa để tránh một cú sốc nặng cho nền kinh tế. Niềm tin của người tiêu dùng vẫn giảm xuống mức thấp trong vòng 5 năm, báo hiệu rằng tiêu dùng tư nhân có thể thu hẹp trong các quý tới. Hơn nữa, triển vọng không chắc chắn của kinh tế thế giới cũng tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế đối ngoại và các kế hoạch đầu tư tư nhân của Nhật Bản. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những tín hiệu tích cực từ khu vực dịch vụ và tỉ lệ thất nghiệp ở Nhật Bản đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 3 thập kỷ qua [1].

Một số đặc điểm nổi bật của kinh tế Nhật Bản trong tháng 10/2019

Cán cân thương mại Nhật Bản bất ngờ  thâm hụt: Cán cân thương mại Nhật Bản bất ngờ thâm hụt 123 tỷ JPY vào tháng 9 năm 2019, chuyển từ thặng dư 124,1 tỷ JPY trong cùng tháng năm trước. Xuất khẩu đã giảm 5,2% so với một năm trước đó xuống còn 6,37 nghìn tỷ JPY trong tháng 9, so với dự báo thị trường giảm 4,0% và giảm 8,2% trong tháng 8. Đó là tháng thứ mười liên tiếp sụt giảm trong các đơn đặt hàng, trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu suy yếu và tranh chấp thương mại Mỹ-Trung. Doanh số thấp hơn được ghi nhận trong các thiết bị vận tải (-2,7%), chủ yếu là do xe cơ giới (-1,8%), xe hơi (-1,9%), các bộ phận của xe cơ giới (-14,7%), xe máy (-10,3%); và máy móc (-11,2%) cụ thể là máy móc gia công kim loại (-17,9%), máy phát điện (-13,1%), máy tính và thiết bị (-11,9%) và các bộ phận của máy tính (-13,3%); máy móc điện (-4,7%), đặc biệt là thiết bị âm thanh và hình ảnh (-11,9%), máy quay video (-14,8%), thiết bị thị giác (-15,1%), điện thoại, điện báo (-27,3% ) và đo điện (-6,8%), thiết bị điện (-12,8%), pin và ắc quy (-3,5%). Ngoài ra, doanh thu giảm đối với hàng hóa sản xuất (-3,8%), trong đó các sản phẩm sắt và thép (-0,4%), kim loại màu (-2,7%) sản xuất kim loại (-9,0%), cao su (-5,7%), sản phẩm khoáng sản phi kim loại (-6,3%), giấy và giấy sản xuất (-14,5%), vải sợi dệt (-1,1%); hóa chất (-2,1&); nhiên liệu khoáng sản (-16,9%). Trong số các đối tác thương mại chính, xuất khẩu đã giảm xuống Trung Quốc (-6,7%), Mỹ (-7,9%), Hồng Kông (-10,3%), Singapore (-11,4%), Thái Lan (-14,4%) và Úc (- 8,4%), nhưng đã tăng lên ở Trung Đông (8,5%) và EU (3,4%).

Nhập khẩu giảm 1,5% xuống còn 6,49 nghìn tỷ JPY, so với kỳ vọng giảm 2,8% và sau khi giảm 11,9% trong tháng trước. Mua nhiên liệu khoáng sản giảm 19,0%, đặc biệt là xăng dầu (-16,1%), các sản phẩm dầu mỏ (-35,5%), LNG (-11,7%), LPG (-43,8%) và than đá (-19,8%). Ngoài ra, nhập khẩu đã giảm đối với hàng hóa sản xuất (-1,4%), cụ thể là các sản phẩm sắt và thép (-7%), kim loại màu (-9,7%), và gỗ & nút chai được sản xuất (-6,6%). Ngoài ra, nhập khẩu giảm cho thiết bị vận tải (-1,3%). Ngược lại, mua hàng tăng cho: máy móc điện (3,9%), cụ thể là chất bán dẫn (5,9%) và IC (6,2%); máy móc (1,1%), trong đó máy phát điện (0,3 phần trăm), máy tính và thiết bị (19,8%) và các bộ phận của máy tính (28,0 %); thực phẩm (5,1%), cụ thể là thịt (9,3%), ngũ cốc (2,6%), rau quả (2,7%). Ngoài ra, mua tăng cho; hóa chất (9,2 %), do các sản phẩm y tế (44,2 %); và nguyên liệu thô (2,9%). Nhập khẩu giảm từ Trung Quốc (-1,0%), Hồng Kông (-4,8%), Hàn Quốc (-8,9%), Mỹ (-11,6%) và Trung Đông (-13,6%). Ngược lại, nhập khẩu tăng từ Đài Loan (9.0%), EU (12.4%)[2].

Lạm phát Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất trong 7 tháng: Lạm phát giá tiêu dùng của Nhật Bản đã giảm xuống 0,2% so với cùng kỳ vào tháng 9 năm 2019 từ mức 0,3% của tháng trước và thấp hơn kỳ vọng của thị trường là 0,4%. Đó là tỷ lệ lạm phát thấp nhất trong bảy tháng, chủ yếu được đẩy xuống bởi giá xăng giảm thấp hơn. Hàng năm, giá tiếp tục giảm cho vận tải và truyền thông (-1,6% so với -1,2% trong tháng 8), với giá xăng thấp hơn (-6,9% so với -4,8%) và truyền thông (-2,9%, cùng tốc độ như trong tháng 8), với phí điện thoại di động giảm 5,2% (so với -5,7%) do các nhà mạng không dây lớn cắt giảm phí dưới áp lực từ chính phủ. Ngoài ra, lạm phát giảm do văn hóa và giải trí (1,0% so với 1,1%), phí nhiên liệu, ánh sáng và nước (0,2% so với 1,2%), đặc biệt là điện (0,4% so với 1,8%) và gas (0,4% so với 1,8%) . Đồng thời, giá cả tăng cùng tốc độ đối với nhà ở (ở mức 0,2 %); chăm sóc y tế (-0,2 %) và linh tinh (ở mức 1,0 %). Hơn nữa, chi phí quần áo và giày dép không đổi sau khi tăng 0,6% trong tháng trước.  Mặt khác, lạm phát tăng đối với thực phẩm (0,5% so với 0,1%), được thúc đẩy bởi cá và hải sản (0,2% so với -2,9%), các sản phẩm sữa và trứng (2,2% so với 1,9%) và trái cây (4,8% so với 2,1%); đồ nội thất và đồ dùng gia đình (2,7 % so với 2,3 %) và giáo dục (0,7 %so với 0,6 %). Giá tiêu dùng cơ bản, bao gồm các sản phẩm dầu nhưng không bao gồm giá thực phẩm tươi, đã tăng 0,3% so với một năm trước đó vào tháng 9 năm 2019, giảm từ mức tăng 0,5% trong tháng trước và phù hợp với kỳ vọng của thị trường. Đó là tỷ lệ thấp nhất kể từ tháng 4 năm 2017[3].

Niềm tin tiêu dùng tiếp tục giảm: Tâm lý tiêu dùng đã giảm từ 37,1 điểm trong tháng 8 xuống 35,6 điểm trong tháng 9. Theo các dữ liệu thống kê, chỉ số niềm tin tiêu dùng trong tháng 9 năm 2019 là thấp nhất kể từ tháng 6 năm 2011 và thấp hơn kỳ vọng của thị trường 36,5 điểm. Chỉ số niềm tin tiêu dùng đo lường kỳ vọng của người tiêu dùng trong sáu tháng tới với chỉ số đo từ  0-100;  con số 100 chỉ ra rằng tất cả những người được hỏi đều thấy mức sống của họ được cải thiện.
Người tiêu dùng đang chú ý hơn về sự sẵn sàng mua hàng hóa lâu bền cũng như triển vọng công việc của họ. Tăng trưởng thu nhập và các loại sinh kế tổng thể đang giảm nhẹ. Về lạm phát, kỳ vọng về giá cao hơn đã giảm trong tháng 9, với 87,6% số người được hỏi kỳ vọng giá sẽ có xu hướng cao hơn (tăng 0,6 điểm phần trăm so với khảo sát tháng trước). Người tiêu dùng ngày càng bi quan trước việc tăng thuế bán hàng từ 8% đến 10% được thực hiện vào ngày 1 tháng 10.

Các chuyên gia của FocusEconomics dự kiến ​​mức tiêu dùng cá nhân sẽ tăng 0,7% trong năm 2019, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo của tháng trước. Năm 2020, dự kiến mức tiêu dùng cá nhân tăng 0,1%, không thay đổi so với ước tính của tháng trước[4].

Niềm tin doanh nghiệp suy yếu: Theo khảo sát kinh doanh Tankan hàng quý của Ngân hàng Nhật Bản, niềm tin của các doanh nghiệp lớn đã giảm trong quý 3 năm 2019, đây là mức giảm xuống mức thấp nhất kể từ quý 2 năm 2013 khi chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng và tăng trưởng toàn cầu đối với lĩnh vực bên ngoài quan trọng của Nhật Bản.  Chỉ số niềm tin kinh doanh được dự báo trong ba tháng tới thậm chí sẽ còn tồi tệ hơn, với chỉ số giảm từ 7 điểm trong quý 2 xuống 2 điểm trong quý 3, cho thấy các doanh nghiệp lớn không mấy lạc quan hơn về điều kiện kinh doanh. Cuộc khảo sát cũng cho thấy các doanh nghiệp lớn dự kiến ​​chi tiêu vốn sẽ tăng 6,6% trong năm tài chính đến tháng 3 năm 2020, dưới mức 7,0% đã được các nhà phân tích thị trường kỳ vọng. Các doanh nghiệp lớn dự báo đồng yên Nhật sẽ đạt trung bình 108,5 JPY/USD trong nửa cuối năm tài chính 2019, kết thúc vào tháng 3 năm 2020. Cuối cùng, niềm tin vào các ngành phi sản xuất cũng giảm trong quý 3, cho thấy sự yếu kém trong lĩnh vực sản xuất là từ từ ăn vào nền kinh tế rộng lớn hơn. Chỉ số giảm từ 23 điểm trong quý 2 xuống 21 điểm trong quý 3[5].

Trần Ngọc Nhật

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

1. Japan Economic Outlook 23/09/2019

https://www.focus-economics.com/countries/japan

2. Japan Trade Balance Swings to Deficit in September

https://tradingeconomics.com/japan/balance-of-trade

3. Japan Inflation Falls to 7-Month Low

https://tradingeconomics.com/japan/inflation-cpi

4. Consumer confidence in freefall in September ahead of a sale tax hike

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/consumer-confidence/consumer-confidence-in-freefall-in-september-ahead-of-a

5. Busines sentiment among big manufacturers sours to over six-year low in Q3

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/business-confidence/business-sentiment-among-big-manufacturers-sours-to-over

 

Tin tức khác

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản tăng đáng kể lên 2.758,78 tỷ yên vào tháng 1 năm 2025 từ 1.766,54 tỷ yên cùng kỳ năm trước, vượt quá sự đồng thuận ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025

Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng vọt lên 130,94 tỷ yên vào tháng 12 năm 2024 từ 32,35 t ...

CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG

Các khoản vay tiêu dùng tăng vọt và tiền lương trì trệ dẫn đến khó khăn tài chính kỷ lục trong các hộ gia đình. Ngày càng nhiều người Nhật phải vật ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản giảm xuống còn 117,62 tỷ yên vào tháng 11 năm 2024 từ mức 813,87 yên cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức thâm hụt thươ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn