GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 11 NĂM 2019

Đăng ngày: 9-12-2019, 21:53

Nền kinh tế Nhật Bản trong tháng 11/2019 có xu hướng chậm lại khi tiêu dùng tư nhân, tiêu dùng của chính phủ và tăng trưởng đầu tư cố định đều đang tăng trưởng vừa phải. Hơn nữa, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm trong quý thứ ba trong vòng chưa đầy một năm, cho thấy cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung kéo dài đã cản trở khu vực bên ngoài của Nhật Bản. Trong lần tăng thuế tiêu thụ này, Chính phủ Nhật Bản đã lên kế hoạch cho một loạt tác động có thể xẩy ra. Bước sang quý IV, nền kinh tế Nhật Bản sẽ có hy vọng phát triển trở lại. Vào ngày 1 tháng 10, thuế tiêu dùng đã tăng từ 8% lên 10%, điều này có thể sẽ tác động tiêu cực đến tiêu dùng cá nhân. Hơn nữa, niềm tin của người tiêu dùng vẫn bị suy giảm mặc dù đã tăng trong tháng 10, trong khi chỉ số PMI đo lường hoạt động của khu vực tư nhân trong tháng 10 đã giảm lần đầu tiên kể từ giữa năm 2016[1].

Một số đặc điểm nổi bật của kinh tế Nhật Bản trong tháng 11/2019

Cán cân thương mại Nhật Bản thặng dư trong tháng 10: Cán cân thương mại Nhật Bản đạt thặng dư 17,3 tỷ yên so với mức thâm hụt 456 tỷ yên cùng kỳ năm trước. Đây là thặng dư đầu tiên trong bốn tháng, khi xuất khẩu giảm 9,2%, giảm trong tháng thứ mười một liên tiếp, trong khi nhập khẩu giảm với tốc độ nhanh hơn 14,8%, tháng giảm thứ sáu liên tiếp. Xuất khẩu giảm 9,2% so với một năm trước đó xuống còn 6,58 nghìn tỷ yên. Một số mặt hàng xuất khẩu đã giảm như các nguyên liệu thô (-16,5%), hàng sản xuất (-13,4%), máy móc (-12,9%), hóa chất (-9,7%), máy điện (-8,3%), thiết bị vận chuyển (-7,4%) và thực phẩm (-5,2 phần trăm). Trong số các đối tác thương mại chính của Nhật Bản, xuất khẩu chủ yếu được kéo dãn ra bởi doanh số bán sang Trung Quốc (-10,3%), Hàn Quốc (-23,1%), Singapore (-14,6%) và Thái Lan (-14,6%). Ngoài ra, xuất khẩu sang Mỹ giảm 11,4% và Đức 19,4%.

Nhập khẩu giảm 14,8% so với cùng kỳ xuống còn 6,56 nghìn tỷ JPY. Các giao dịch mua đã giảm đối với nhiên liệu khoáng sản (-24,9%), hóa chất (-17,6%), hàng hóa sản xuất (-16,7%), máy móc điện (-12,7%), máy móc (-12,5%) và thực phẩm (-6,6). Ngược lại, mua thiết bị vận tải tăng 1,2 phần trăm. Trong số các đối tác thương mại hàng đầu, nhập khẩu chủ yếu được kéo bởi lượng mua ít hơn từ Trung Quốc (-15,4%), Hồng Kông (-29,2%) và Singapore (-29,5%). Ngoài ra, nhập khẩu từ Mỹ đã giảm 17,2%[2].

Nhật Bản tăng thuế tiêu dùng vào tháng 10 đã đè nặng lên PMI: Chỉ số quản lý mua hàng tổng hợp của Ngân hàng Jibun (PMI) đã giảm từ 51,5 điểm trong tháng 9 xuống còn 49,1 điểm trong tháng 10. Do đó, chỉ số hiện nằm dưới ngưỡng 50 điểm. Sự sụt giảm trong chỉ số tổng hợp chủ yếu phản ánh sự ra đời của việc tăng thuế doanh thu vào ngày 1 tháng 10 và đây được xem như là một cơn bão tàn khốc. Do đó, ngành dịch vụ của Nhật Bản đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9 năm 2016. Tuy nhiên, sự sụt giảm có thể chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Như Joe Hayes, một nhà kinh tế tại IHS Markit, nhận xét: “Có nhiều lý do tích cực khi các đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng, mặc dù thời tiết xấu làm trầm trọng thêm các tác động tiêu cực từ việc tăng thuế bán hàng. Điều này trái ngược với tháng 4 năm 2014, lần cuối cùng thuế bán hàng được tăng lên, khi các đơn đặt hàng mới tham gia vào Nhật Bản co lại. Điều này sẽ gợi ý rằng tác động lần này không gây bất lợi cho nền kinh tế Nhật Bản”.

Về vấn đề sản xuất, sự sụt giảm đơn hàng mới dẫn đến sản lượng giảm mạnh. Một bối cảnh kinh tế toàn cầu bất lợi và các dấu hiệu của nhu cầu trong nước yếu đang đè nặng lên các hoạt động sản xuất quan trọng.

Các chuyên gia của FocusEconomics dự kiến ​​đầu tư phi dân cư tư nhân sẽ tăng 0,7% trong năm 2020, giảm 0,2 điểm phần trăm so với dự báo của tháng trước. Năm 2021, dự kiến đầu tư phi dân cư tư nhân mở rộng 2,0%[3].

Niềm tin tiêu dùng tăng lần đầu tiên trong gần 2 năm: Tâm lý tiêu dùng đã tăng từ 35,6 điểm trong tháng 9 lên 36,2 trong tháng 10. Theo các dữ liệu thống kê cho thấy đây là mức tăng đầu tiên kể từ tháng 11 năm 2017. Chỉ số niềm tin tiêu dùng đo lường kỳ vọng của người tiêu dùng trong sáu tháng tới với chỉ số đo từ  0-100;  con số 100 chỉ ra rằng tất cả những người được hỏi đều thấy mức sống của họ được cải thiện. Người tiêu dùng đã bớt bi quan hơn về sự sẵn sàng mua hàng hóa lâu bền. Tình cảm liên quan đến sinh kế nói chung cũng tăng mạnh, trong khi tăng trưởng thu nhập tăng nhẹ. Ngược lại, triển vọng công việc tiếp tục giảm trong tháng 10. Về lạm phát, kỳ vọng về giá cao hơn đã giảm trong tháng 10, với 82,6% số người được hỏi kỳ vọng giá sẽ có xu hướng cao hơn (giảm 5,0 điểm phần trăm so với khảo sát tháng trước).

Các chuyên gia của FocusEconomics dự kiến ​​mức tiêu dùng cá nhân sẽ tăng 0,1% trong năm 2020, không thay đổi so với dự báo của tháng trước. Năm 2021, dự kiến mức tiêu dùng cá nhân tăng 0,8%[4].

BoJ giữ nguyên mức lãi suất nhưng gợi ý về việc cắt giảm trong tương lai: Ngân hàng Nhật Bản đã giữ nguyên lãi suất ngắn hạn chính ở mức -0,1% trong cuộc họp tháng 10, đồng thời đưa ra tín hiệu mạnh mẽ hơn về việc có thể cắt giảm lãi suất trong tương lai gần để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Trong một báo cáo triển vọng hàng quý, ngân hàng trung ương cho biết họ sẽ không ngần ngại thực hiện các biện pháp nới lỏng bổ sung nếu nền kinh tế mất đà để đạt được mục tiêu lạm phát 2% của ngân hàng trung ương. Ngoài ra, ngân hàng cho rằng tốc độ tăng trưởng dự kiến ​​có phần thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế ở nước ngoài. Tỷ lệ tăng dự kiến ​​của CPI thấp hơn, chủ yếu trong nửa đầu của giai đoạn dự báo, phản ánh các yếu tố như giá dầu thô giảm. GDP dự kiến ​​sẽ tăng 0,6% trong năm tài khóa 2019 (so với dự báo trước đó là 0,7%) và 0,7% trong năm tài khóa 2020 (so với dự báo trước đó là 0,9%). Dự báo lạm phát cho tài khóa 2019 được ước tính trung bình 0,7%(so với dự báo trước đó là 1%). Liên quan đến số lượng JGB sẽ được mua, ngân hàng sẽ tiến hành mua một cách linh hoạt để số tiền còn thiếu của họ sẽ tăng với tốc độ hàng năm khoảng 80 nghìn tỷ yên.

BoJ cũng xác định bằng một cuộc bỏ phiếu nhất trí để mua quỹ tín thác đầu tư bất động sản Nhật Bản (J-REITs) để số tiền còn thiếu của họ sẽ tăng với tốc độ hàng năm lần lượt là khoảng 6 nghìn tỷ yên và khoảng 90 tỷ yên. Nhằm giảm rủi ro trước giá tài sản theo cách phù hợp, ngân hàng có thể tăng hoặc giảm số lượng mua tùy theo điều kiện thị trường. Đối với CP và trái phiếu doanh nghiệp, ngân hàng sẽ duy trì số tiền còn nợ của họ ở mức tương ứng khoảng 2,2 nghìn tỷ yên và khoảng 3,2 nghìn tỷ yên[5].

Trần Ngọc Nhât

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

1. Japan Economic Outlook 19/11/2019

https://www.focus-economics.com/countries/japan

2. Japan Trade Balance Swings to Surplus

https://tradingeconomics.com/japan/balance-of-trade

3. Sales tax hike weighs on composite PMI in October

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/pmi/sales-tax-hike-weighs-on-composite-pmi-in-october

4. Consumer confidence logs first increase in nearly two years in October

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/consumer-confidence/consumer-confidence-logs-first-increase-in-nearly-two-years

5. BoJ Holds Rates but Hints at Future Cuts

https://tradingeconomics.com/japan/interest-rate

 

Tin tức khác

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản tăng đáng kể lên 2.758,78 tỷ yên vào tháng 1 năm 2025 từ 1.766,54 tỷ yên cùng kỳ năm trước, vượt quá sự đồng thuận ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025

Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng vọt lên 130,94 tỷ yên vào tháng 12 năm 2024 từ 32,35 t ...

CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG

Các khoản vay tiêu dùng tăng vọt và tiền lương trì trệ dẫn đến khó khăn tài chính kỷ lục trong các hộ gia đình. Ngày càng nhiều người Nhật phải vật ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản giảm xuống còn 117,62 tỷ yên vào tháng 11 năm 2024 từ mức 813,87 yên cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức thâm hụt thươ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn