GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2019

Đăng ngày: 30-12-2019, 10:04

Nền kinh tế Nhật Bản trong tháng 12/2019 có xu hướng chậm lại phần lớn là do việc tăng thuế bán hàng đối với tiêu dùng tư nhân. Hơn nữa, cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung sẽ tiếp tục hạn chế khu vực bên ngoài của Nhật Bản. Trong tháng 12, xuất khẩu của Nhật Bản đã giảm 7,9% đánh dấu mức giảm dài nhất kể từ tháng 11 năm 2016. Nguyên nhân một phần là do chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng giữa Hàn Quốc và Nhật Bản. Ngân hàng Nhật Bản đã giữ lãi suất ngắn hạn chính ở mức -0,1% trong cuộc họp tháng 12 và giữ mục tiêu cho lãi suất trái phiếu chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 10 năm ở mức khoảng 0%. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách Nhật Bản vẫn có những đánh giá lạc quan về nền kinh tế của quốc gia này, bất chấp những tác động của việc tăng thuế tiêu dùng vào tháng 10, cũng như xuất khẩu, sản xuất và tâm lý kinh doanh đều đã bị tác động bởi thiên tai và nhu cầu trì trệ từ các nền kinh tế ở nước ngoài[1].

Một số đặc điểm nổi bật của kinh tế Nhật Bản trong tháng 12/2019

Xuất khẩu giảm tháng thứ 12 liên tiếp: Xuất khẩu hàng hóa bằng đồng Yên danh nghĩa đã giảm 7,9% so với cùng kỳ trong tháng 11, đánh dấu cho mức giảm hàng tháng thứ 12 liên tiếp, sau khi giảm 9,2% trong tháng 10. Tuy nhiên, các chỉ số xuất khẩu trong tháng 11 vẫn tốt hơn so với mức giảm 8,6% mà các nhà phân tích thị trường mong đợi. Xuất khẩu đã bị cản trở trong tháng 11 bởi sự sụt giảm mạnh trong cả lô hàng sản xuất và máy móc. Đặc biệt, xuất khẩu sang Hàn Quốc sụt giảm đáng kể, một phần do chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, cũng như xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Nhập khẩu hàng hóa giảm 15,7% trong tháng 11, giảm so với mức giảm 14,8% trong tháng 10. Do đó, cán cân thương mại hàng hóa đã cải thiện mức thâm hụt 0,1 nghìn tỷ Yên trong tháng 11, tăng từ mức thâm hụt 0,7 nghìn tỷ Yên được ghi nhận trong cùng tháng năm trước (tháng 10 năm 2019: số dư 0,0 nghìn tỷ Yên). Thâm hụt thương mại kéo dài 12 tháng là 1,5 nghìn tỷ Yên trong tháng 11, giảm từ 2,2 nghìn tỷ Yên trong tháng 10. Năm 2020, các chuyên gia kinh tế dự báo xuất khẩu sẽ tăng 3,1% và nhập khẩu sẽ tăng 3,9%, đưa cán cân thương mại xuống mức thâm hụt 4,7 tỷ USD[2].

Tỷ lệ lạm phát của Nhật Bản ở đạt mức cao trong 4 tháng qua: Lạm phát giá tiêu dùng của Nhật Bản đã tăng lên 0,5% so với cùng kỳ vào tháng 11 năm 2019 từ 0,2% trong tháng trước và trên mức đồng thuận thị trường là 0,2%. Đây là tỷ lệ cao nhất trong bốn tháng qua, vì giá lương thực và nhà ở tăng nhanh hơn trong khi giảm phát vận tải giảm.

Giá thực phẩm tăng 1,5% so với cùng kỳ trong tháng 11, cao nhất trong 13 tháng, sau khi tăng 0,9% trong tháng 10. Trong số các loại thực phẩm, chi phí tăng đối với thịt (1,2% so với 0,7%), các sản phẩm từ sữa và trứng (2,4% so với 2,2%), bánh & kẹo (3,1% so với 2,8%), thực phẩm nấu chín (1,5% so với 1,4%).

Áp lực tăng thêm đến từ nhà ở (0,8 % so với 0,7%); phí nhiên liệu, ánh sáng và nước (0,1% so với -0,8%), được tăng cường bằng khí đốt (0,8%  so với -0,4%) và phí nước & thoát nước (2,1 % so với 0,2 %); đồ nội thất và đồ dùng gia đình (3,8 % so với 4,2 % quần áo và giày dép (1,3 % so với 1,2 %); chăm sóc y tế (0,7 %, giống như trong tháng 10); văn hóa và giải trí (2,3 %, giống như trong tháng 10). Ngược lại, chi phí tiếp tục giảm cho vận chuyển và truyền thông (-0,5% so với -1%), giáo dục (-7,8%, giống như trong tháng 10), và hàng hóa và dịch vụ linh tinh (-3% so với -2,9%). Lạm phát tiêu dùng cốt lõi hàng năm, không bao gồm thực phẩm tươi sống, tăng tới 0,5% trong tháng 11 so với 0,4% trong tháng 10, vẫn nằm dưới mục tiêu 2% của Ngân hàng Nhật Bản. Bỏ qua ảnh hưởng của thực phẩm tươi sống và năng lượng, giá tiêu dùng tăng 0,8% so với cùng kỳ trong tháng 11, cao nhất kể từ tháng 4 năm 2016 và cao hơn dự báo là 0,6%. Đây là kết quả của việc tăng thuế bán hàng từ 8% lên 10% trong tháng 10, điều này đã đẩy giá lên cao nhưng làm giảm nhu cầu của người tiêu dùng, một động lực chính của lạm phát[3].

Niềm tin doanh nghiệp giữa các nhà sản xuất lớn giảm mạnh: Theo khảo sát kinh doanh Tankan hàng quý của Ngân hàng Nhật Bản, tình cảm giữa các nhà sản xuất lớn đã giảm trong quý IV xuống 0 điểm, giảm từ 5 điểm trong quý III và đánh dấu mức giảm thấp nhất trong gần bảy năm. Cuộc khảo sát được tính bằng cách trừ đi số người được hỏi cho biết điều kiện kinh tế đang được cải thiện so với những người nói rằng nền kinh tế đang xấu đi. Sự suy giảm trong tình cảm kinh doanh giữa các nhà sản xuất lớn trong quý IV là rõ rệt nhất trong số những doanh nghiệp sản xuất kim loại gia công, máy móc, tàu và xe cơ giới. Mặt khác, niềm tin được cải thiện giữa các nhà sản xuất thực phẩm và đồ uống lớn. Trong khi đó, niềm tin giữa các công ty phi sản xuất lớn giảm xuống 20 điểm trong quý IV, giảm so với 21 điểm trong quý III.

Nhìn chung, bài đọc của quý IV nhấn mạnh rằng nền kinh tế Nhật Bản tiếp tục phải đối mặt với những cơn gió ngược từ chủ nghĩa bảo hộ thương mại giữa cả Mỹ và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Hơn nữa, việc tăng thuế doanh thu trong tháng 10 lên 10% từ 8% cũng có khả năng là các doanh nghiệp không được giám sát. Tuy nhiên, có thể thấy được là lĩnh vực sản xuất của Nhật Bản đang phải gánh chịu gánh nặng của những cơn gió ngược này[4].

PMI tổng hợp giữ ổn định trong tháng 12: Chỉ số quản lý mua hàng tổng hợp của Ngân hàng Jibun (PMI) không thay đổi trong tháng 12 là 49.8 điểm so với báo cáo trong tháng 11 là 49.9 điểm. Do đó, chỉ số vẫn ở dưới ngưỡng 50,0 điểm. Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phục hồi trong tháng 12, với sản lượng tăng với tốc độ nhanh hơn so với tháng 11, sau khi sản lượng giảm vào tháng 10 do sự gia tăng của thuế bán hàng trong tháng đó. Tuy nhiên, lĩnh vực sản xuất vẫn tiếp tục ở trong tình trạng bất ổn hợp đồng đầu ra vào tháng 12.

Theo Joe Hayes, một nhà kinh tế tại IHS Markit, cho biết, gói kích thích gần đây do Thủ tướng Shinzo Abe đưa ra có khả năng mang lại sức sống cho nền kinh tế trong nước. Điều này chắc chắn sẽ giảm bớt áp lực cho Ngân hàng Nhật Bản phải có hành động chính sách ngay lập tức nếu triển vọng kinh tế xấu đi.

Các thành viên tham gia dự báo đồng thuận của Focus Economics dự kiến ​​đầu tư phi dân cư tư nhân sẽ tăng 0,8% trong năm 2020, tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo của tháng trước. Năm 2021, dự báo đầu tư phi dân cư tư nhân sẽ mở rộng 2,0%[5].

Trần Ngọc Nhật

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

1. Japan Economic Growth 19/11/2019

https://www.focus-economics.com/countries/japan

2. Exports drop for the 12th consecutive month in November

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/trade/exports-drop-for-the-12th-consecutive-month-in-november

3. Japan Inflation Rate at 4-Month High in November

https://tradingeconomics.com/japan/inflation-cpi

4. Business sentiment among big manufacturers plummets in Q4

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/business-confidence/business-sentiment-among-big-manufacturers-plummets-in-q4

5. Composite PMI holds steady in December

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/pmi/composite-pmi-holds-steady-in-december

 

Tin tức khác

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản tăng đáng kể lên 2.758,78 tỷ yên vào tháng 1 năm 2025 từ 1.766,54 tỷ yên cùng kỳ năm trước, vượt quá sự đồng thuận ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025

Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng vọt lên 130,94 tỷ yên vào tháng 12 năm 2024 từ 32,35 t ...

CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG

Các khoản vay tiêu dùng tăng vọt và tiền lương trì trệ dẫn đến khó khăn tài chính kỷ lục trong các hộ gia đình. Ngày càng nhiều người Nhật phải vật ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản giảm xuống còn 117,62 tỷ yên vào tháng 11 năm 2024 từ mức 813,87 yên cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức thâm hụt thươ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn