GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 10 NĂM 2021

Đăng ngày: 25-10-2021, 08:28

1. Nhật Bản thâm hụt thương mại ở mức cao:

Mức thâm hụt thương mại của Nhật Bản là 622,76 tỷ Yên vào tháng 9 năm 2021 đảo ngược từ mức thặng dư 667,36 tỷ Yên trong cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái lên 6.841 tỷ Yên vào tháng 9 năm 2021, cao hơn so với kỳ vọng của thị trường về mức tăng trưởng là 11%. Đây là mức tăng trưởng thứ bảy liên tiếp trong bối cảnh các hạn chế của chuỗi cung ứng và nhu cầu toàn cầu giảm. Xuất khẩu các lô hàng máy móc tăng 23,7%; chủ yếu từ máy phát điện (16,5%) và thiết bị sản xuất chất bán dẫn (26,2%). Ngoài ra, xuất khẩu máy móc điện tăng (16,5%), chất bán dẫn tăng (20,2%); Các mặt hàng khác tăng (10,2%), dẫn đầu là hóa chất (27,4%) và hàng hóa chế tạo tăng (42,8%) dẫn đầu là sắt thép (94,4%). Ngược lại, xuất khẩu thiết bị giao thông giảm (24,5%), chủ yếu là xe có động cơ (-40,3%) và ô tô (-46,6%). Xuất khẩu tăng sang các nước: Trung Quốc (10,3%), Đài Loan (39,9%), Hồng Kông (14,3%), Hàn Quốc (24,5%), Thái Lan (36,9%), Đức (16,9%). Ngược lại, doanh thu giảm ở Mỹ (-3,3%) và Úc (-16,1 %).(1)

Nhập khẩu vào Nhật Bản đã tăng 38,6% so với cùng kỳ năm ngoái lên 7.463 tỷ Yên vào tháng 9 năm 2021, cao hơn kỳ vọng của thị trường về mức tăng 34,4%. Đây là tháng thứ tám liên tiếp tăng trưởng về các lô hàng nhập khẩu trong bối cảnh nhu cầu trong nước đang phục hồi sau đại dịch. Nhập khẩu nhiên liệu khoáng sản tăng (90%) dẫn đầu tăng bởi xăng dầu (90,6%) và khí thiên nhiên hóa lỏng (67,6%); máy móc điện tăng (33,2%), dẫn đầu là chất bán dẫn (47,9%). Ngoài ra, nhập khẩu của các mặt hàng khác cũng tăng (6,3%), được thúc đẩy bởi các thiết bị khoa học (11,8%) và nhóm hóa chất tăng (54,6%) chủ yếu là hàng y tế tăng (84,1%). Ngoài ra, nhập khẩu máy móc tăng (15,3%), dẫn đầu là máy phát điện tăng (52,0%); nhóm hàng chế tạo tăng (56,8%), dẫn đầu là kim loại màu (66,9%); nguyên liệu thô (74,9%), quặng kim loại màu (59,8%) và thiết bị vận tải (6,4%). Nhập khẩu tăng từ Trung Quốc (23,8%), Đức (24,2%), Đài Loan (40,6%), Hàn Quốc (33,5%),  Mỹ (36,3%) và Úc (99,5%).(2)

2. Niềm tin của các nhà sản xuất Nhật Bản xuống mức thấp trong 6 tháng:

Chỉ số niềm tin của các nhà sản xuất ở Nhật Bản đã giảm xuống còn 16 điểm vào tháng 10 năm 2021 từ mức 18 điểm của tháng trước, mức thấp nhất kể từ tháng 4. Niềm tin của các nhà sản xuất đã trở nên xấu đi. Chỉ số niềm tin trở nên xấu đi ở các công ty sản xuất ô tô và thiết bị vận tải (-31 điểm so với -14 điểm trong tháng 9); máy móc điện (20 điểm so với 27 điểm); sản phẩm kim loại, máy móc (34 điểm so với 39 điểm); thép, kim loại màu suy giảm (0 điểm so với 16 điểm). Chỉ số niềm tin ở ngành dịch vụ tăng lên -1 điểm từ -2 điểm trong tháng 9.(3)

3. Lạm phát giá bán buôn của Nhật Bản:

Giá bán buôn tại Nhật Bản trong tháng 9 năm 2021 đã tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2020, đánh dấu mức tăng lớn nhất kể từ tháng 9 năm 2008, do chi phí năng lượng và nguyên liệu thô tăng cao. Chỉ số giá hàng hóa doanh nghiệp (CGPI), theo dõi mức giá mà các công ty cung cấp theo hình thức B2B đối với hàng hóa của họ đã tăng 5,9% trong tháng 9/2021 so với một năm trước. Lạm phát hàng hóa bán buôn phản ánh mức tăng giá của nhiều loại hàng hóa từ các sản phẩm như: gỗ xẻ và sản phẩm từ gỗ tăng 48,3%, giá than và sản phẩm dầu mỏ tăng 32,4%, giá sắt và thép tăng 17,8% và kim loại màu tăng 27,0%. Giá nhập khẩu tăng 31,3%, mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 1 năm 1981, nhờ sự suy yếu gần đây của đồng yên so với đô la Mỹ và giá xuất khẩu tăng 11,0%. Về tác động đến lạm phát và sự ổn định của môi trường kinh doanh trong những tháng cuối năm, rõ ràng giá hàng hóa tăng trong bối cảnh cầu vượt cung, đặc biệt là nhóm hàng năng lượng khi mùa đông đến gần, làm gia tăng quan ngại về lạm phát toàn cầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế cần trợ lực để phục hồi sau những tổn thất vì dịch bệnh, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản dự kiến ​​sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp kích thích tiền tệ trong tương lai gần.(4)

4. Giá sản xuất tại Nhật Bản tiếp tục tăng cao:

Giá sản xuất tại Nhật Bản đã tăng 6,3% vào tháng 9 năm 2021 so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là tháng thứ bảy liên tiếp xảy ra lạm phát giá sản xuất trong bối cảnh giá cả hàng hóa đang tăng mạnh. Giá đồ uống và thực phẩm tăng (2,9% so với 3% trong tháng 8), hóa chất (12,7% so với 12,5%), xăng dầu và than (32,4% so với 31,5%), sắt thép (17,8% so với 16,4%), sản phẩm kim loại (2,5% so với 1,4%), kim loại màu (27% so với 28%), máy móc sản xuất (0,4% so với 0,2%) và các sản phẩm công nghiệp chế tạo khác (0,7% so với 0,4%) và linh kiện điện tử (1,6% so với 0,8%). Đồng thời, có sự phục hồi trong chi phí máy móc điện (0,3% so với -,5%). Ngược lại, thiết bị vận tải giảm (-0,2% so với -0,3%) và thông tin liên lạc (-1,4% so với -1,7%).(5) 

5. PMI ngành dịch vụ Nhật Bản tăng nhẹ:

Chỉ số quản lý mua hàng dịch vụ của Ngân hàng Jibun (PMI dịch vụ) đã tăng nhẹ lên mức 47,4 điểm vào tháng 9 năm 2021 (Chỉ số trên 50 điểm cho thấy lĩnh vực dịch vụ nói chung đang mở rộng;

 

 

 

 

 

dưới 50 điểm cho thấy lĩnh vực dịch vụ đang giảm). Trong tháng này, số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới cũng giảm ở mức độ chậm hơn so với tốc độ giảm của đơn đặt hàng nói chung. Các công ty thường cho rằng việc giảm tổng số lượng đơn đặt hàng mới là do nhu cầu từ thị trường trong nước và quốc tế đều yếu. Đồng thời, việc làm đã tăng trong tháng thứ hai liên tiếp, với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng lên mức cao nhất trong năm tháng mặc dù hoạt động kinh doanh đã giảm tháng thứ 20 liên tiếp. Về mặt chi phí, giá đầu vào tăng trong tháng thứ 10 liên tiếp, trong bối cảnh chi phí nguyên vật liệu, nhân viên và nhiên liệu tăng. Trong khi đó, giá cả tăng lần thứ năm trong sáu tháng, nhưng tỷ lệ lạm phát chỉ là một phần nhỏ.(6)

6. Nhật Bản thành lập 'quỹ vắc xin' trị giá 4,4 tỷ USD

Theo tờ báo Kyodo, Nhật Bản có kế hoạch thành lập quỹ 500 tỷ yên (4,4 tỷ USD) nhằm hỗ trợ các công ty phát triển vắc xin phòng bệnh truyền nhiễm và các loại thuốc mới, theo gói kinh tế đầu tiên được đưa ra kể từ khi Thủ tướng Fumio Kishida nhậm chức. Thủ tướng Kishida đã tuyên bố sẽ tăng cường các biện pháp ứng phó với đại dịch Covid 19, cũng như các nghiên cứu về khoa học và công nghệ của Nhật Bản. Ý tưởng về quỹ này được đưa ra trong bối cảnh các công ty Nhật Bản đã tụt hậu so với các đối thủ nước ngoài trong việc phát triển vắc-xin COVID-19 và quốc gia này phải phụ thuộc vào nhập khẩu thuốc từ nước ngoài. Theo gói kinh tế, chính phủ csẽ mở rộng "quỹ đại học" thêm 600 tỷ yên để tăng cường các hoạt động nghiên cứu từ đó đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia về khoa học và công nghệ. Quỹ trị giá 4,5 nghìn tỷ yên dự kiến ​​ra mắt vào tháng 3 năm 2022 để giúp các trường đại học Nhật Bản đầu tư vào nghiên cứu trong tương lai. Thủ tướng Kishida đang tìm cách mở rộng quỹ lên khoảng 10 nghìn tỷ yên. Ngày 4 tháng 10, chính phủ Nhật Bản đưa ra một gói kinh tế trị giá "hàng chục nghìn tỷ yên" để tăng cường các biện pháp chống lại đại dịch Covid 19 và đảm bảo sự phục hồi tăng trưởng ổn định.(7)

7. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) giữ nguyên chính sách tiền tệ

Sau cuộc họp ngày 22 tháng 9 năm 2021, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) đã giữ nguyên chính sách tiền tệ của mình. Ủy ban Chính sách của BoJ quyết định giữ nguyên lãi suất ngắn hạn ở mức -0,1% và định hướng tỷ lệ lãi suất dài hạn vào khoảng 0%. Về việc mua tài sản, Ngân hàng giữ nguyên các cam kết mua của các quỹ hoán đổi, quỹ đầu tư bất động sản Nhật Bản, trái phiếu doanh nghiệp. Các quyết định của chính sách được đưa ra trong bối cảnh áp lực về giá cả đã giảm đi và hoạt động kinh tế đang tăng lên cùng với việc Ngân hàng ghi nhận sự gia tăng xuất khẩu và sản xuất công nghiệp mặc dù có một số hạn chế từ phía nguồn cung. Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản vẫn đang ở trong tình trạng "nghiêm trọng" do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. BoJ sẽ tiếp tục theo dõi chặt chẽ các tác động của Covid-19 và không ngần ngại thực hiện các biện pháp nới lỏng bổ sung nếu cần thiết, đồng thời BoJ kỳ vọng chính sách lãi suất ngắn hạn và dài hạn sẽ ở mức ổn định hoặc thấp hơn.

Liên quan đến các chính sách trong tương lai, nhà kinh tế Alvin Liew tại United Overseas Bank nhận xét: “Việc thực hiện chính sách vào tháng 9 là phù hợp với kỳ vọng của thị trường và không thay đổi quan điểm chính sách tiền tệ của chúng tôi đối với Nhật. Quan điểm của chúng tôi cho rằng BoJ sẽ duy trì kích thích nền kinh tế trong vài năm tới, có thể ít nhất là cho đến năm 2023.”

Các chuyên gia của FocusEconomics đều kỳ vọng chính sách lãi suất ngắn hạn của BoJ sẽ duy trì ở mức âm 0,1% cho đến cuối năm 2022. Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm được dự báo là 0,07% vào cuối năm 2021 và 0,09% vào cuối năm 2022.(8)

 

Trần Ngọc Nhật,

Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

1. Japan Export Growth Slows

https://tradingeconomics.com/japan/exports

2. Japan Imports Hit 34-Month High

https://tradingeconomics.com/japan/imports

3. Japan Business Mood Drops to 6-Month Low

https://tradingeconomics.com/japan/reuters-tankan-index

4. Japan's September wholesale prices log largest rise since 2008

http://www.news.cn/english/2021-10/12/c_1310239528.htm

5. Japan Producer Prices Rise the Most in Nearly 13 Years

https://tradingeconomics.com/japan/producer-prices-change

6. Japan Composite PMI Revised Downward

https://tradingeconomics.com/japan/composite-pmi

7. Japan to set up $4.4 billion "vaccine fund" under economic package

https://english.kyodonews.net/news/2021/10/e98df38f9572-japan-to-set-up-44-billion-vaccine-fund-under-economic-package.html

8. Bank of Japan keeps policy unchanged at September meeting

https://www.focus-economics.com/countries/japan/news/monetary-policy/bank-of-japan-keeps-policy-unchanged-at-september-meeting

 

 

Tin tức khác

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 2 NĂM 2025

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản tăng đáng kể lên 2.758,78 tỷ yên vào tháng 1 năm 2025 từ 1.766,54 tỷ yên cùng kỳ năm trước, vượt quá sự đồng thuận ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 1 NĂM 2025

Thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng vọt lên 130,94 tỷ yên vào tháng 12 năm 2024 từ 32,35 t ...

CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ GIA TĂNG Ở NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ CĂNG THẲNG

Các khoản vay tiêu dùng tăng vọt và tiền lương trì trệ dẫn đến khó khăn tài chính kỷ lục trong các hộ gia đình. Ngày càng nhiều người Nhật phải vật ...

BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024
BẢN TIN KINH TẾ NHẬT BẢN THÁNG 12 NĂM 2024

Thâm hụt thương mại của Nhật Bản giảm xuống còn 117,62 tỷ yên vào tháng 11 năm 2024 từ mức 813,87 yên cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu mức thâm hụt thươ ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn