GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

BỐN YẾU TỐ THỂ HIỆN TÍNH CỘNG ĐỒNG TRONG LỄ HỘI GION (NHẬT BẢN) VÀ LỄ HỘI HOA LƯ (VIỆT NAM) (Phần 2)

Đăng ngày: 15-06-2017, 03:10

2. Bốn yếu tố thể hiện tính cộng đồng

Tính cộng đồng trong lễ hội truyền thống được thể hiện ở 4 yếu tố: tính “cộng cư”, “cộng cảm”, “cộng hữu” và “cộng sinh”. Bài viết sẽ dựa theo trục phân tích này để xem xét đặc điểm tính cộng đồng thể hiện trong lễ hội Gion (Nhật Bản) và Hoa Lư (Việt Nam).

Về phương diện cộng cư, có thể thấy, nhu cầu gắn kết, tìm thấy sức mạnh của cá nhân được nâng lên thành sức mạnh cộng đồng tại lễ hội Gion và Hoa Lư được thể hiện rất rõ. Có thể hiểu “cộng cư là quá trình sinh sống lâu dài trong cùng một cộng đồng, hình thành những lợi ích của các nhóm dân cư cùng cư trú…(lược), cũng như những khác biệt giữa các cộng đồng trong đời sống văn hóa…”[1]. Cứ đến mùa lễ hội Gion (tháng 7 dương lịch), những cư dân phố cổ Yama-Boko (山鉾町衆) lại gắn kết với nhau trong một tổ chức có tên là “Hội phố” (町会) được điều hành bởi Hội phố trưởng (町会長) do họ tự bầu ra. Các phố Yama-Boko liên kết với nhau thành “Hội liên hiệp các phố Yama-Boko lễ hội Gion” (祇園祭山鉾連合会) để cùng bàn bạc cách thức tổ chức lễ hội, phân bổ nguồn kinh phí do họ tự đóng góp, phân công thứ tự rước kiệu trong lễ tuần hành. Họ dành ra cả tháng 7 để chuẩn bị cho các lễ hội nhỏ và lễ hội chính là Lễ tuần hành kiệu Yama và Hoko vào ngày 17/7. Ba mươi hai cỗ kiệu (gồm 23 cỗ kiệu Yama và 9 cỗ kiệu Hoko) được 32 phố cổ lưu giữ, bảo tồn, trang hoàng lộng lẫy để tỏa sáng ở lễ tuần hành. Mỗi phố trở thành một cộng đồng nhỏ - dồn sức cho cỗ kiệu mà họ gửi gắm niềm tin tôn giáo, niềm tự hào về nghề truyền thống được trao truyền qua nhiều thế hệ. Ở lễ hội Hoa Lư cũng vậy, vào đầu tháng 4 dương lịch hàng năm, cư dân Trường Yên lại tạm gác công việc hàng ngày và chia theo các nhóm, hội khác nhau (Hội phụ lão, Hội phụ nữ, Hội thương binh, Hội nông dân, Đoàn thanh niên…) dưới sự quản lý của Ủy Ban nhân dân xã để tập trung cao độ vào việc chuẩn bị đồ lễ, công việc tế lễ, lễ rước nước (phần lễ) và hội tiết tập trận cờ lau (phần hội), xếp chữ Thái Bình, tế nữ quan…. Hội phụ lão chuẩn bị cho việc hành lễ và tế lễ, đọc Cửu khúc tại đền thờ vua Đinh. Hội phụ nữ tập dượt cho màn dâng rượu và tế nữ quan. Hội nông dân, thương binh, đoàn thanh niên phụ trách đội nhạc, kèn truyền thống và màn múa lân. Các thiếu niên (học sinh lớp 7 ở một số trường THCS trên địa bàn xã) tập trận cờ lau chuẩn bị cho việc trình diễn trong ngày hội…

Về phương diện cộng cảm, đây là thành tố thể hiện sự gắn kết của các cư dân trong cộng đồng bởi như cầu đồng cảm trong các hoạt động tế lễ (vì cùng chung tín ngưỡng), các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Ở lễ hội Gion, 32 cỗ kiệu tượng trưng cho 32 vị thần được thờ phụng như Aratenjin-yama thờ Thần mưa (霰天神), Yamabushi-yama thờ phái Sugendo (修験道), Taishi-yama thờ Thánh Đức Thái Tử (聖徳太子), Tsuki-hoko thờ Thần mặt trăng (月読命), Kiku-hoko thờ Tiên nhân (仙人), Bành tổ, Hachiman-yama theo tín ngưỡng Bát phàm (八幡), Uchide-yama rước Thần công hoàng hậu (神功星后)... cho thấy mỗi cộng đồng dân cư ở Kyoto từ lâu đã chọn cho mình vị thần mà họ tin tưởng sẽ đem lại may mắn, hạnh phúc, bình an..., và cứ thế, họ thuộc về những cộng đồng tín ngưỡng riêng như vậy. Con số hơn 100.000 người được huy động vào việc dựng kiệu, trang trí và rước kiệu hàng năm của các phố cổ Gion và khoảng 400.000 khách du lịch cùng tham gia vào lễ hội, cùng với việc lễ hội Gion được duy trì liên tục từ thế kỷ 16 tới nay chứng tỏ tính cộng cảm cao của lễ hội này. Về lễ hội Hoa Lư, trong 3 ngày lễ hội, chúng tôi đã thống kê được 38 đoàn tế ở các địa phương về chầu, tế tại hai Đền thờ Vua Đinh và Vua Lê. Con số này cũng trùng với báo cáo của Ban tổ chức lễ hội tại Hội nghị rút kinh nghiệm công tác tổ chức Lễ hội Trường Yên 2016. Thống kê của Ban tổ chức lễ hội cho thấy có 56 tiết mục nghệ thuật quần chúng của 8 huyện, thành phố và trung tâm văn hóa tỉnh Ninh Bình, thu hút trên 300 diễn viên và nhạc công từ các câu lạc bộ thôn, xóm, làng trong tỉnh[2]. Sự tự nguyện tham gia, tái hiện các nghi lễ mang đậm tính tín ngưỡng cũng chính là sự thỏa mãn phần nào nhu cầu giao tiếp với “nhân vật thờ” - đối tượng quan trọng trong lễ hội - điều mà trước đây chỉ có một vài tầng lớp hoặc nhân vật đặc biệt được chỉ định - mới được tham gia. Bên cạnh đó, sự gắn kết trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, sự tự hào vì được chan hòa trong không khí vừa thiêng liêng vừa hứng khởi đã giúp các cư dân cùng được hưởng thụ các giá trị văn hóa và tâm linh, và khi đó, các cách biệt xã hội giữa các cá nhân ngày thường dường như được xóa nhòa, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hóa của mình. Sự cộng cảm còn được thể hiện ở việc lễ hội đã thu hút được hàng chục nghìn lượt nhân dân và du khách[3] đến tham quan, cổ vũ các trò chơi dân gian và các hoạt động của lễ hội. Khác với cư dân ở Trường Yên, du khách tham quan mang theo mong muốn trở về với văn hóa dân tộc, ngưỡng vọng “nhân vật thờ” siêu việt, cao cả, cùng tận hưởng giây phút thiêng liêng, được phô bày bản thân qua các cuộc thi tài, hình thức trình diễn nghệ thuật, nhất là được sống với tinh thần cộng đồng khác hẳn ngày thường.

Về phương diện cộng hữu, đối với lễ hội Gion, theo kết quả phỏng vấn của nhóm nghiên cứu, chi phí để tổ chức lễ hội Gion không dựa vào nguồn tài trợ của chính phủ hoặc của thành phố, mà dựa hoàn toàn vào sự đóng góp tự nguyện của những người dân nơi đây. Gần đây, một số phố do có sự giảm dân số sinh sống tại địa phương, đã tiến hành pháp nhân hóa tổ chức của họ, đồng thời đăng ký quyền sở hữu cỗ kiệu Yama hoặc Hoko do khu phố họ chịu trách nhiệm bảo tồn, sau đó kêu gọi sự đóng góp từ các công ty trên địa bàn. Tiêu biểu có phố Kankoku Boko (函谷鉾) đã kêu gọi sự đóng góp của các công ty như Daido seimei, Asahi là những công ty gắn bó chặt chẽ với Kyoto, sử dụng khoản tiền đóng góp này để vận hành lễ hội. Ngoài ra, về những người tham gia vào việc duy tu, bảo tồn, dựng kiệu và rước kiệu, cũng có những cư dân phố cổ Yama-Boko chấp nhận sự tham gia của những cư dân mới sống trong các chung cư được xây dựng 15-20 năm trở lại đây, nhưng cũng có khu phố không đồng ý điều này. Có thể nói, sự tự nguyện, tự chủ của người dân các phố Yama - Boko đóng vai trò quan trọng nhất trong việc duy trì và tổ chức lễ hội Gion cho đến ngày nay. Còn ở Lễ hội Hoa Lư, chi phí để tổ chức lễ hội không chỉ dựa vào nguồn tài trợ của tỉnh, Sở Văn hóa Thể thao Ninh Bình, mà phần nhiều dựa vào sự đóng góp tự nguyện của những người dân cố đô Hoa Lư và các công ty có sự gắn bó mật thiết với vùng đất này. Trong quá trình này, Ban Khánh tiết - những người tổ chức, quản lý lễ hội và các “mạnh thường quân” có vai trò quan trọng trong việc huy động tài chính, tổ chức, quản lý lễ hội diễn ra tốt đẹp. Nếu trong cuộc sống thường nhật các cư dân địa phương không tránh khỏi có những cạnh tranh ở mức độ khác nhau trong công việc làm ăn, nhưng vào lễ hội, việc này không tồn tại ở cố đô Hoa Lư. Người dân đều cảm thấy vinh dự, tự hào khi được cống hiến sức người, sức của cho lễ hội. Việc cư dân xã Trường Yên và các xã tham gia lễ hội đóng góp tự nguyện theo khả năng của tài chính của mỗi gia đình vào việc chuẩn bị cho lễ hội đã mang đến cho họ những ý nghĩa nhân văn lớn lao: trước là để ghi nhớ công ơn Vua Đinh - Vua Lê, tiếp nối truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cầu mưa thuận, gió hòa, thái bình hưng thịnh, sau là tạo điều kiện vui chơi lễ hội, gắn kết cá nhân với cộng đồng sau những ngày tháng làm việc vất vả.

Về phương diện cộng mệnh – cộng sinh, lễ hội Gion có lịch sử hơn 1.200 năm, bắt nguồn từ việc người dân kinh đô Heian thực hiện các nghi lễ (Goryoe) cúng tế Thiên vương, Dịch thần và các linh hồn để tiễu trừ dịch bệnh cho kinh thành. Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử như loạn Onin (1467-1477) và Trận biến Hamaguri Gomon cuối thời Mạc phủ, các trận hỏa hoạn lớn thiêu hủy khá nhiều cỗ kiệu quý giá..., nhưng người dân Kyoto vẫn gìn giữ, tu bổ và trang trí những cỗ kiệu phục vụ cho lễ diễu hành hàng năm bởi đó là công việc được truyền lại từ các bậc tiên tổ, thể hiện sự kính trọng và tự hào của họ đối với lịch sử quê hương mình. Còn lễ hội Hoa Lư lại thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và lòng kính trọng đối với bậc tiền nhân đã có công dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất giang sơn về một mối, xây dựng nên nhà nước quân chủ trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam. Trong lễ hội Hoa Lư, phần tế được coi là quan trọng nhất trong khâu tổ chức lễ và đó là nghi lễ cả cộng đồng cùng gắn kết với nhau bằng niềm tin tâm linh thành kính đối với tiên tổ. Điều này đặc biệt thể hiện rõ trong các nghi thức tế về đêm. Bên cạnh đó, lễ rước rước nước truyền thống hàng năm biểu hiện mối quan hệ mật thiết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của cộng đồng và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Cộng sinh là thành tố gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó, có thể thấy yếu tố cộng sinh thể hiện rõ nhất ở tín ngưỡng thờ Linh hồn (怨霊) và Dịch thần (疫神) ngay từ thời cổ đại, khoảng thế kỷ thứ 8 ở Heian (sau này là Kyoto). Tín ngưỡng này đã đưa đến việc người dân cố đô cùng nhau thờ cúng và dâng lễ cho các vị thần vào lễ hội Gion trong suốt hàng ngàn năm lịch sử. Chính niềm tin tôn giáo, sự tin tưởng vào cùng một thế lực siêu nhiên đã đem lại cho người dân nơi đây cảm giác gắn bó, nương tựa vào nhau để sống. Việc thờ cúng và hành lễ đã được nâng lên thành các hoạt động mang tính mỹ học cao vào thời Edo (từ thế kỷ 16) do sự phát triển vượt bậc của các ngành nghề thủ công truyền thống nơi đây như: chế tác kim loại, dệt, nhuộm, làm đồ gỗ... Sau này, lễ hội Gion không chỉ là một biểu tượng tôn giáo, mà nó còn trở thành một hoạt động trình diễn mang tính nghệ thuật cao - mỗi cỗ kiệu Yama – Hoko được ví như những “viện bảo tàng mỹ thuật di động”,  trở thành niềm tự hào của người dân Kyoto. Về lễ hội Hoa Lư, nhìn tổng thể, có thể khẳng định, lễ hội Hoa Lư nói riêng và lễ hội truyền thống ở Việt Nam nói chung huộc phạm trù “cái thiêng” thể hiện ở một số đặc trưng sau: - Thứ nhất là thời điểm diễn ra lễ hội: đó là thời điểm thiêng (tức là ngày sinh, ngày mất của nhân vật thờ - vốn được gắn với các truyền thuyết siêu nhiên) đi cùng với các hành động mang tính biểu trưng làm cho thời điểm diễn ra lễ hội trở thành “thời điểm thiêng”; - Thứ hai là ngôn ngữ mang tính biểu tượng như tế, lễ, rước, các trò diễn; - Thứ ba là các hình thức diễn xướng khác. Tại Lễ hội Trường Yên, như đã trình bày, nghi lễ Rước thể hiện sự nghênh tiếp Đức Vua, phô diễn sức mạnh cộng đồng và được đánh giá là màn trình diễn ngoạn mục vừa mang tính linh thiêng, trang nghiêm lại vừa rất sôi động, thu hút sự tham gia của đông đảo cộng đồng với các nghi trượng tiêu biểu như cờ, kiệu, lễ vật dâng cúng, chiêng, trống, lọng và dàn nhạc bát âm. Đây cũng chính là cách cộng đồng coi lễ hội là chỗ dựa tinh thần để hướng về tổ tông, quê hương, về thế giới tâm linh và với thiên nhiên. Sự tự nguyện tham gia trong không khí vừa vui vẻ, vừa trang nghiêm, vừa trần tục, vừa linh thiêng của cư dân đã chứng tỏ sự gắn kết của cư dân trong cộng đồng đối với nhân vật lịch sử nhưng lại mang đậm tính truyền thuyết - yếu tố cốt lõi trong hoạt động lễ hội truyền thống.

3. Kết luận

Có thể thấy, trong cả lễ hội Gion (Nhật Bản) và Hoa Lư (Việt Nam), dù trải qua hàng ngàn năm lịch sử, các nghi thức truyền thống vẫn được gìn giữ, lưu truyền tạo nên ấn tượng sâu sắc cho người tham gia lễ hội. Chính những nghi thức trang nghiêm đã khiến cho người tham gia tôn kính, phục tùng và cảm nhận được sự linh thiêng, tôn quý của công việc mà cộng đồng cũng như bản thân tham gia, khiến cho tất cả cùng chung một cảm nhận sâu sắc về ý thức trách nhiệm với cộng đồng. Mặt khác, việc lễ hội được tổ chức với sự tham gia của nhiều thành phần trong xã hội không phân biệt tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội đã khiến cho các cư dân địa phương và khách tham gia lễ hội háo hức tham gia và đắm mình vào không khí lễ hội.

Mặc dù có sự tương đồng như trên, nhưng cũng có thể thấy tính cộng đồng được biểu hiện với các sắc thái và cấp độ khác nhau ở lễ hội hai nước. Thứ nhất là, nếu như trong lễ hội Gion, chủ thể của lễ hội nổi lên là tầng lớp thị dân phố cổ (町衆) - những người “nâng đỡ” sự tồn tại của lễ hội trong suốt chiều dài hơn một ngàn năm lịch sử, thì ở lễ hội Hoa Lư, bên cạnh vai trò chủ đạo của người dân xã Trường Yên xuyên suốt quá trình lịch sử, hiện nay còn có sự điều hành và chỉ đạo của Ban Khánh tiết (bao gồm nhiều thành phần, trong đó có các tổ chức như chính quyền xã, Sở văn hóa tỉnh, các tổ chức xã hội như Hội phụ lão, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên...); lễ hội Hoa Lư cũng trở thành một lễ hội được nhà nước bảo hộ. Thứ hai là, lễ hội Gion được vận hành theo nguyên tắc tự chủ - chất lượng - độc đáo. Sự “tự chủ” ở đây là tự chủ về kinh phí tổ chức, vận hành lễ hội. “Chất lượng” thể hiện ở mỗi cỗ kiệu được trang hoàng xa hoa, lộng lẫy với các vật phẩm và đồ tạo tác có lịch sử hàng trăm năm, cách rước kiệu và trang phục của người rước cũng được tuân thủ tuyệt đối theo các mẫu truyền thống, không lai căng, pha tạp. Sự “độc đáo” thể hiện ở vật phẩm trang trí và những cỗ kiệu lộng lẫy mà chỉ lễ hội Gion mới có, thậm chí, có những phố kiệu còn bài trừ và ngăn chặn sự tham gia của người ngoài vào công việc tổ chức lễ hội, do sợ sẽ làm biến mất các phong tục truyền thống. Tuy nhiên, sự tỉ mẩn, kỳ công và tuân thủ nghiêm ngặt các mẫu truyền thống như vậy dường như còn chưa thấy được trong lễ hội Hoa Lư. Việc quá nhiều ban ngành, đoàn thể được huy động tham gia vào việc điều hành lễ hội trong khi những người thực sự hiểu về lịch sử và lễ hội truyền thống vẫn còn ít ỏi là một điểm yếu của lễ hội, cần được khắc phục.

Tóm lại, việc tham dự, quan sát, nghiên cứu lễ hội Gion và Hoa Lư đã mang đến cho chúng tôi nhận diện rõ hơn, đây là những lễ hội truyền thống điển hình của hai nước, mang đậm tính cộng đồng. Lễ hội do chính cộng đồng làm chủ thể sáng tạo, đồng thời chính cộng đồng lại là khách thể thưởng thức các giá trị văn hóa đó. Sự đồng thuận của lễ hội đến từ nhiều phương diện: khâu tổ chức nghiêm túc, kế hoạch cụ thể, quản lý chặt chẽ; sự chủ động, tự giác phối hợp, đóng góp, tham gia hoạt động chuẩn bị, hành lễ chu đáo, tận tâm, nhiệt huyết của mỗi người dân địa phương. Lễ hội đã giúp cho người dân gắn kết, chia sẻ, đồng cảm với nhau hơn. Nhờ chia sẻ niềm tin, tín ngưỡng, lợi ích chung mà lễ hội có vai trò đặc biệt trong đời sống tinh thần của cộng đồng, đem lại những giá trị tích cực cho mỗi cá nhân, đồng thời là niềm tự hào của người dân hai nước./.

Ngô Hương Lan, Nguyễn Thị Thu Phương, Phùng Diệu Anh.

[1]Ngô Văn Lệ, “Cộng đồng và lễ hội cộng đồng – Một vài nhận xét”, Lễ hội cộng đồng - truyền thống và biến đổi”, NXB Đại học Quốc gia TP HCM, 2014, tr.6.

[2]Hội nghị rút kinh nghiệm công tác tổ chức Lễ hội Trường Yên 2016

http://nbtv.vn/tin-tuc-su-kien/ninh-binh-24h/thoi-su-chinh-tri/201604/hoi-nghi-rut-kinh-nghiem-cong-tac-to-chuc-le-hoi-truong-yen-2016-674289/

[3]Trong 3 ngày diễn ra Lễ hội đã có khoảng 35 nghìn lượt khách đến dự và tham gia

http://nbtv.vn/tin-tuc-su-kien/ninh-binh-24h/thoi-su-chinh-tri/201604/hoi-nghi-rut-kinh-nghiem-cong-tac-to-chuc-le-hoi-truong-yen-2016-674289/

Tài liệu tham khảo chính:

1. Đặng Công Nga sưu tầm, Lễ hội Trường - Yên, TL 49/2003, Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.

2. Đỗ Long, Trần Hiệp, Tâm lý cộng đồng làng và di sản, NXB. Khoa học xã hội, 1993.

3. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB. Giáo dục, 1999.

4. Lễ hội công đồng - truyền thống và biến đổi, nhiều tác giả, NXB.Đại học Quốc gia TP.HCM, 2014.

5. 米山俊直1974年『祇園祭りー都市人類学ことはじめ』中古新書363.  (Yoneyama Toshinao, 1974, Lễ hội Gion - Từ góc nhìn nhân học đô thị, NXB.Choukoronsha 363)

6. 本多健一著2015年『京都の神社と祭り』』中古新書2345. (Honda Kenichi, 2015, Đền thờ thần đạo ở Kyoto và các lễ hội, NXB.Chuokoron-shinsa, 2345)

7. 『函谷鉾 : 祇園祭山鉾 』2001あすの函谷鉾をつくる会 (Kankoku-hoko: Kiệu yama - boko trong lễ hội Gion. 2001, Hội làm kiệu Kankoku-hoko)

8. 岡澤浩一, 則子 [編]2008年『京の熱い夏 : 2008年祇園祭長刀鉾稚児 = A passionate summer at the Gion Festival in Kyoto』(Okazawa Koichi (chủ biên), 2008).

9. 月刊『太陽』1985年7月号 (Tạp chí “Thái dương” số 7/1985).

10. 佐々木 健2007年「長く続くお祭りの条件―祇園祭を例に―」早稲田大学商学部 (Sasaki Ken, 2007, “Điều kiện để duy trì lễ hội dài lâu - Trường hợp lễ hội Gion, Khoa thương mại, đại học Waseda)

11. 河内将芳著2007年『祇園祭と戦国京都 』角川学芸出版 (Kawauchi Masayoshi, 2007, Lễ hội Gion và Kyoto thời Chiến quốc, NXB.Kadokawa Gakugei).

12. 稲葉陽二2011年『ソーシャル・キャピタル入門 孤立から絆へ』中公新書2138 (Inaba Yoji (2011), “Nhập môn về Vốn xã hội - Từ “Cô Lập” đến “Bạn””, NXB Chukoron-Shinsha INC.)

 

Tin tức khác

CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN
CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN

Ngày 12/12, Hiệp hội Kiểm tra năng lực chữ Hán (Kanji) của Nhật Bản đã chính thức công bố chữ Hán của năm 2024 là "Kim" (金). Đây là lần thứ năm t ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Tuy nhiên, vấn đề này không đơn giản. Về các “giả thuyết” mà Higashino đã đề cập ở trên, nghiên cứu tiếp theo của của Takayuki Tanaka trong cuốn “U ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Điểm mấu chốt ở đây là bối cảnh các chuyến viếng thăm của các tăng sư như Phật Triết. Tại đây có câu chuyện lịch sử thú vị liên quan đến các sứ thầ ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Cách thời điểm kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam đúng 10 năm, vào mùa hè (từ ngày 7/7 đến 22/9) năm 2013, nhân kỷ niệm 40 năm t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn