GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

GIỚI THIỆU VỀ MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG SOKA GAKKAI TRÊN THẾ GIỚI

Đăng ngày: 31-10-2021, 13:38

  1. 1. Giới thiệu chung về Soka Gakkai

1.1. Sự ra đời của Soka Gakkai

Soka Gakkai (創価学会- Sáng giá Học hội) khởi nguồn vào năm 1930, khi hai ông Makiguchi Tsunesaburo (1871-1944) và Toda Josei (1900-1958) sáng lập ra “Soka Kyoiku Gakkai” (創価教育学会- Học hội giáo dục Sáng Giá). Hai ông đưa ra “Học thuyết giáo dục Soka” (創価教育学説) với mục đích cải cách giáo dục dựa vào triết lý giáo dục của Makiguchi, nhằm xây dựng xã hội và con người theo hướng Phật pháp. Trong Chiến tranh Thế giới  II, Makiguchi và Toda không theo tư tưởng lấy Thần đạo Quốc gia làm trung tâm nên bị bắt giam vào năm 1943, Makiguchi đã mất trong thời gian ngồi tù. Tháng 7 năm 1945, Toda được phóng thích, ông quyết tâm gây dựng lại tổ chức, đổi tên thành “Soka Gakkai” với ý nghĩa là Học hội Sáng (tạo) Giá (trị), trở thành Hội trưởng đời thứ hai sau Makiguchi, đẩy mạnh hoạt động truyền giáo Shakubuku (折伏-Chiết phục) [1] . Nhờ vậy, cùng với việc được công nhận tư cách pháp nhân tôn giáo tại Nhật Bản năm 1952, số lượng tín đồ Soka Gakkai đã đạt tới 765.000 hộ gia đình [2] vào năm 1957.

1.2. Sự phát triển của Soka Gakkai

Sau khi Toda qua đời năm 1958, Ikeda Daisaku nhận chức Hội trưởng đời thứ ba từ năm 1960 tới năm 1979 (song vẫn giữ chức Hội trưởng danh dự cho tới nay), tiếp theo là Hojo Hiroshi (giữ chức từ năm 1979 tới năm 1981), Akiya Einosuke (giữ chức từ năm 1981 tới năm 2006), Harada Minoru (giữ chức từ năm 2006 tới nay). Theo Niên giám Tôn giáo hàng năm, vào năm 1961, số lượng tín đồ của Soka Gakkai ở Nhật Bản là 1.300.000 hộ gia đình, tới năm 1968, con số này đã vượt qua con số 8.000.000 hộ. Cơ cấu tổ chức của Soka Gakkai bao gồm Hội Soka Gakkai Quốc tế (SGI, chính thức được thành lập năm 1975) và Soka Gakkai Nhật Bản, hai bên tuy đều thuộc Soka Gakkai và đều có trụ sở tại Tokyo song hoạt động độc lập. Trong đó, Soka Gakkai Nhật Bản có số gia đình hội viên chính thức tại Nhật là 8.270.000 hộ gia đình[3], từ Hokkaido tới Okinawa được chia làm 13 vùng quản lý, cùng với các chi nhánh ở từng tỉnh, tạo thành mạng lưới tổ chức chặt chẽ. Hội SGI, là tập hợp của tín đồ Soka Gakkai các quốc gia ngoài Nhật Bản, đã có mặt tại 192 nước và vùng lãnh thổ với 2.200.000 tín đồ [4].

2.Một số cộng đồng Soka Gakkai trên thế giới

2.1. Soka Gakkai ở châu Âu

Số tín đồ SGI ở châu Âu ước tính 130.000 người[5]. Năm 1970, ở Đức có hơn 500 tín đồ, ở Thụy Sỹ có trên dưới 30 tín đồ, còn ở Áo chỉ vỏn vẹn 15 tín đồ vào năm 1974, tất cả là người Nhật. Tới năm 2013, Áo có 853 tín đồ[6]. Ở Italia, số tín đồ khá lớn, hơn 60.000 người[7]. Tuy nhiên, những người được giới thiệu tới với Soka Gakkai, họ dần có niềm tin khá vững chắc và trở thành tín đồ lâu năm, mặc dù được trưởng thành trong gia đình theo Kito giáo. Bà Susanne Pritchard, phụ trách ban Phụ nữ của SGI châu Âu, bà đã có kinh nghiệm hoạt động trong SGI gần 30 nước từ Tây Âu tới Đông Âu, cho biết: “Tôi đến với Soka Gakkai khi tôi 18 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học. Khi đó, tôi vẫn là một người Kito giáo, đều đặn tới nhà thờ. Song chứng kiến tình cảnh thế giới khi đó, tôi không thấy tin tưởng lắm vào tình yêu của thánh thần. Trên thế giới tỷ lệ tội phạm cũng tăng lên, thảm họa tự nhiên cũng nhiều hơn, tôi thấy như đang sống ở một thời đại bất ổn. Đó là khởi đầu việc tôi tới với Soka Gakkai. Tôi được bạn thân rủ tới buổi thảo luận về Phật pháp, khi đó tôi chỉ nghĩ mình thử đi xem sao. Mọi người ở đó vô cùng vui vẻ, nồng hậu, và thảo luận sôi nổi về triết học cũng như cuộc đời. Trong lúc thảo luận với mọi người, tôi tiếp cận với các cách cảm nhận về Phật pháp khác nhau. Khi trải nghiệm việc tụng Daimoku, từ bên trong tôi sôi sục một nguồn năng lượng, khiến tôi cảm thấy phấn chấn. Tuy là chuyện từ 40 năm trước, song bây giờ tôi vẫn nhớ rõ cảm giác đó. Nhật Liên Phật pháp chính là giúp con người tự tìm hiểu bản thân, đó như một cuộc hành trình. Sau một năm trải nghiệm như vậy, tôi đã gia nhập Soka Gakkai”[8]. Qua lời kể của Susanne, có thể thấy Soka Gakkai đã có sức mạnh lay động và thay đổi quan niệm sống của bà, giúp bà có cái nhìn tích cực về cuộc sống, sau một thời gian trải nghiệm thì từ một người trưởng thành trong gia đình theo Kito giáo, bà đã hoàn toàn trở thành tín đồ của Soka Gakkai. Việc tụng Daimoku để tinh thần trở nên thông suốt, đạt được sự tỉnh thức hoàn hảo để thực hiện các mục tiêu của Soka Gakkai như “Tôn trọng sinh mệnh” và “Hạnh phúc của muôn người”, được Susanne áp dụng vào công việc của bà. Khi đi theo triết lý của Soka Gakkai, bà nhận ra nên chấp nhận sự đa dạng của tính cách con người, dù có gặp người không hợp mình về mặt tính cách, song đầu tiên bà bỏ qua các mặt tiêu cực, mà tập trung tìm ra mặt tích cực của người kia. Mang một thái độ tích cực như vậy trong công việc nên các buổi biểu diễn của bà-vốn là một nhạc công, và đồng nghiệp khá suôn sẻ, nhận được những bình luận tốt. Ở đây, Soka Gakkai đã chứng tỏ được vai trò của mình, hướng tín đồ áp dụng tinh thần Phật giáo thực hành, đem Phật pháp vào giải quyết các vấn đề của cuộc sống hiện tại, nhấn mạnh “Tất cả mọi người đều có tiềm năng đạt được Phật quả” như lời dạy của Đại sư Nhật Liên, hướng tới đạt được “Hòa bình thế giới” và “Lập chính an quốc”. Các buổi Zadankai có vai trò quan trọng trong việc đưa các tín đồ mới hòa nhập với tổ chức, thông qua việc ngồi tụng niệm và thảo luận vòng tròn, những người mới gia nhập có thể mở lòng mình, bày tỏ nỗi băn khoăn về cuộc sống hiện tại cũng như các điểm còn chưa rõ trong giáo lý của Soka Gakkai, cũng như cách áp dụng nó vào cuộc sống. Đây là điểm khác biệt so với cách truyền giáo truyền thống của phái Nhật Liên tông.

 

2.2. Soka Gakkai ở Hồng Kông

Hiện nay, số tín đồ của SGI ở châu Á và châu Đại Dương là 1.420.000 người[9]. Số lượng tín đồ ở khu vực này vượt trội so với các châu lục khác, xuất phát từ vị trí địa lý gần Nhật Bản thuận lợi cho công cuộc hoằng pháp, cũng như tư tưởng Phật giáo trong Soka Gakkai vốn khá gần gũi với các nước Châu Á, đặc biệt là các nước Phật giáo Đại thừa khá quen thuộc như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. Dân số của Hồng Kông bao gồm số lượng lớn người gốc Hoa và các nhóm sắc tộc đa dạng khác[10]. Nhiều tổ chức tôn giáo ở Hồng Kông tham gia hỗ trợ người lao động nhập cư, trong đó nhà thờ Kito giáo có vai trò quan trọng đối với công nhân Philippines nhập cư ở Hồng Kông, nhà thờ Hồi giáo hỗ trợ những người Hồi giáo nhập cư. Ngoài những lao động nhập cư tự nguyện, còn có những lao động nhập cư là nhân viên được các công ty chủ quản ở nước ngoài cử tới Hồng Kông tạm thời hoặc bán vĩnh viễn, và khá nhiều người là người nhập cư Nhật Bản. Số lượng công dân Nhật Bản tại Hồng Kông trong năm 2017 lên tới 25.527 người, trong đó 17.834 người làm việc trong lĩnh vực kinh doanh, 49 người trong lĩnh vực truyền thông, 1.256 người làm nghề tự do và 691 người là sinh viên, nhà nghiên cứu hoặc giáo viên[11]. Câu lạc bộ người Nhật và Hiệp hội Nhật Bản tại Hồng Kông chú trọng thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa người Hồng Kông và người Nhật, song họ ít quan tâm đến vấn đề tôn giáo của người nhập cư Nhật Bản. Vì vậy, Soka Gakkai đã hướng tới những người này trong công cuộc hoằng pháp của mình. Bắt đầu với chỉ 15 tín đồ vào năm 1961, số tín đồ của Soka Gakkai ở Hồng Kông (tức HKSGI) ngày nay đã lên đến 50.000 người[12]. Hiện nay, HKSGI có 11 trung tâm cộng đồng trên khắp Hồng Kông, Cửu Long và Lãnh thổ Mới. Trong đó, có 9 trung tâm dành cho người gốc Hoa, 1 dành cho người nói ngôn ngữ Anh song không phải là người Hoa như người Philippines, Ấn Độ, Mỹ và Anh, và 1 trung tâm còn lại dành người nói tiếng Nhật. HKSGI tạo dựng một mạng lưới cơ sở bằng cách tổ chức các hoạt động văn hóa và xã hội khác nhau, có 4 hội sinh hoạt văn hóa ở Cửu Long Đường,Vịnh Đồng La và Tuen Mun, Sai Wan Ho; 1 trường mẫu giáo ở Cửu Long Đường và 1 trung tâm giải trí ở Tai Po.

HKSGI có khoảng 400 tín đồ người Nhật và 400 tín đồ người nước ngoài nói tiếng Anh trong số 50.000 tín đồ. Tuy nhiên, con số về lượng tín đồ nhập cư từ Trung Quốc Đại lục không được thống kê. Quan điểm của Hội trưởng Ikeda Daisaku coi nhập cư là một hiện tượng xã hội phổ biến hiện nay, quy mô và tốc độ nhập cư đang ngày càng mạnh mẽ hơn do quá trình hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Mặt khác, ông cho rằng nhập cư ồ ạt cũng có thể có tác động không tốt cho xã hội, lo ngại về tình trạng “Sự không thấu hiểu nhau do khác biệt sắc tộc hoặc quốc gia có thể trầm trọng hơn thông qua các cuộc di dân mang tính quốc tế” và “các cuộc di dân mang tính quốc tế có thể là nguyên nhân của các vụ xung đột và bạo lực, theo đó xã hội sẽ có sự chia rẽ nghiêm trọng”[13]. Để giải quyết vấn đề này, Ikeda chủ trương xây dựng ý thức về quyền công dân toàn cầu, nhằm thúc đẩy nhân loại gắn kết với nhau bởi các giáo lý Phật giáo. Ông tin rằng Phật giáo là liều thuốc cho những thách thức liên quan về nhập cư. Người nhập cư hòa nhập được một môi trường mới phụ thuộc nhiều vào các cơ quan hỗ trợ và mạng xã hội ở nước họ tới có sẵn sàng giúp đỡ họ hay không. Ý thức được điều đó, mạng lưới liên lạc giữa các chi nhánh Soka Gakkai ở Nhật Bản và SGI ở nước ngoài được thiết lập chặt chẽ, đảm bảo việc di cư của các tín đồ Soka Gakkai đã được báo trước với các chi nhánh ở vùng đất mới. Do đó, khi nào một tín đồ nước ngoài đến Hồng Kông, các tín đồ ở đó đã chuẩn bị sẵn sàng để hỗ trợ những người mới. Soka Gakkai nhấn mạnh ý thức gia đình và các tín đồ được liên kết với nhau về mặt tinh thần, theo như chủ trương “Dị thể đồng tâm” (異体同心- Itai doushin), nghĩa là “cơ thể khác nhau, tâm hồn giống nhau”, mọi người đều có chung một ý thức gắn kết với nhau, cùng tụng Daimoku và thực hành giáo lý Nhật Liên tông, kết hợp với các mục tiêu cụ thể của Soka Gakkai. Hình ảnh Soka Gakkai như một gia đình lớn, tôn trọng tất cả sinh mệnh, và đề cao sự giác ngộ của cá nhân khiến nó trở nên “dễ gần” và “hấp dẫn” đối với những người nhập cư từ Trung Quốc Đại lục- những người chưa từng tiếp cận với tổ chức Phật giáo mới này khi còn ở Đại lục, do khác biệt về chính sách tôn giáo. Đối với nhiều người nhập cư có hoàn cảnh khó khăn, chủ trương của Soka Gakkai nhấn mạnh khả năng thay đổi nỗi bất hạnh, thông qua tu tập và giác ngộ, đã mang lại niềm tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn ở Hồng Kông.

 

 

Tài liệu trích dẫn:

[1] Trong Phật giáo Nhật Liên có 2 cách thuyết pháp. Một là Shoju (Nhiếp thụ), tức là khi truyền giáo sẽ tôn trọng quan điểm của đối phương để dẫn dụ một cách ôn hòa và cách còn lại gọi là Shakubuku, tức là không cần xem đối phương có thái độ như thế nào mà cứ truyền đạt thẳng những suy nghĩ của mình để thuyết phục đối phương. Soka Gakkai đã chọn phương pháp Shakubuku.

[2] Số liệu theo Niên giám Tôn giáo hàng năm. Trong Soka Gakkai, số lượng tín đồ được thống kê theo hộ gia đình, chứ không theo số lượng người.

[3] Nguồn: https://www.sokanet.jp/info/, (trang website của Soka Gakkai), truy cập  ngày 13 tháng 7 năm 2021.

[4] Nguồn : https://www.sokanet.jp/sgi/gaiyo.html,( trang website của Soka Gakkai), truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021, số liệu này của SGI, không bao gồm số lượng tín đồ ở Nhật Bản.

[5] Nguồn:https://www.sokaglobal.org/about-the-soka-gakkai/at-a-glance/a-global-organization.html,(trang  website của SGI), truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021, số lượng tín đồ riêng ở từng nước châu Âu không được đề cập.

[6] Lukas Pokorny (2014), “A Grand Stage for Kosen rufu in the future: Soka Gakkai in Austria, 1961-1981”, Religion in Austria (Volume2), p.16,p.19,p.3; Department of Religious Studies, University of Vienna, Austria.

[7] 秋庭裕(2016), 欧米多民族社会における日本型新宗教の受容と発展・新たな共同性と宗教の役割, 科学研究費助成事業・研究成果報告書, 大阪府立大学・人文社会学部, 日本 (Akiba Yutaka (2016), Sự phát triển và tiếp nhận của tôn giáo mới Nhật Bản ở xã hội đa sắc tộc Âu Mỹ- Vai trò của tôn giáo và tính cộng đồng mới, Báo cáo kết quả nghiên cứu của chương trình Nghiên cứu được tài trợ chi phí; khoa Xã hội Nhân văn- Đại học Phủ lập Osaka, Nhật Bản).

[8] 田原総一郎 (2018), なぜこれほどまでに強いのか?『創価学会』), p.337, 毎日新聞, 日本 (Tahara Souichiro (2018), Soka Gakkai, tại sao lại mạnh tới như vậy ?, tr. 337, Nxb Mainichi Shinbun, Nhật Bản.

[9] Nguồn: https://www.sokaglobal.org/about-the-soka-gakkai/at-a-glance/a-global-organization.html (trang website của Soka Gakkai, không có số liệu riêng của từng quốc gia, chú ý ở đây không tính số tín đồ ở Nhật), truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.

[10] Năm 2020, Hồng Kông có tổng dân số là 7.474.200 người, theo bản Điều tra nhóm sắc tộc mới nhất (năm 2016) của Cục Điều tra dân số và Thống kê Hồng Kông thì  trong đó 92% là người gốc Hoa và 8,0% là người dân tộc thiểu số. Nhóm thứ hai bao gồm người Philippines (2,5%), người Indonesia (2,1%), người da trắng (0,8%), người Ấn Độ (0,5%), người Nepal (0,3%), người Pakistan (0,2%), người Thái (0,1%), người Nhật Bản (0,1%) ,người Châu Á khác (0,3%) và những người khác (0,9%)

[11] Ka Shing Ng (2018), “A New Home for New Immigrants? A case study of  the role of  Soka Gakkai in the Intergration of Japanese and Mainland Chinese Immigrants  in Hong Kong”, Multidisciplinary Digital Publishing Institute (MDPI), Religions (Volume 9, Issue 11, No.336, p.4/19), Switzerland.

[12] Ka Shing Ng (2018), “A New Home for New Immigrants? A case study of  the role of  Soka Gakkai in the Intergration of Japanese and Mainland Chinese Immigrants  in Hong Kong”, Multidisciplinary Digital Publishing Institute (MDPI), Religions (Volume 9, Issue 11, No.336, p.6/19), Switzerland.

[13] Ka Shing Ng (2018), “A New Home for New Immigrants? A case study of  the role of  Soka Gakkai in the Intergration of Japanese and Mainland Chinese Immigrants  in Hong Kong”, Multidisciplinary Digital Publishing Institute (MDPI), Religions (Volume 9, Issue 11, No.336, p.6/19), Switzerland.

 

Nguyễn Ngọc Phương Trang, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Ka Shing Ng (2018), “A New Home for New Immigrants? A case study of  the role of  Soka Gakkai in the Intergration of Japanese and Mainland Chinese Immigrants  in Hong Kong”, Multidisciplinary Digital Publishing Institute (MDPI), Religions (Volume 9, Issue 11, No.336), Switzerland.

2.Lukas Pokorny (2014), “A Grand Stage for Kosen rufu in the future: Soka Gakkai in Austria, 1961-1981”, Religion in Austria (Volume2), Department of Religious Studies, University of Vienna, Austria.

3.秋庭.裕(2016), 欧米多民族社会における日本型新宗教の受容と発展・新たな共同性と宗教の役割, 科学研究費助成事業・研究成果報告書, 大阪府立大学・人文社会学部, 日本 (Akiba Yutaka (2016), Sự phát triển và tiếp nhận của tôn giáo mới Nhật Bản ở xã hội đa sắc tộc Âu Mỹ- Vai trò của tôn giáo và tính cộng đồng mới, Báo cáo kết quả nghiên cứu của chương trình Nghiên cứu được tài trợ chi phí; khoa Xã hội Nhân văn- Đại học Phủ lập Osaka, Nhật Bản).

4.田原総一郎 (2018), なぜこれほどまでに強いのか?『創価学会』), 毎日新聞, 日本 (Tahara Souichiro (2018), Soka Gakkai, tại sao lại mạnh tới như vậy ?, Nxb Mainichi Shinbun, Nhật Bản).

Tin tức khác

CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN
CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN

Ngày 12/12, Hiệp hội Kiểm tra năng lực chữ Hán (Kanji) của Nhật Bản đã chính thức công bố chữ Hán của năm 2024 là "Kim" (金). Đây là lần thứ năm t ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Tuy nhiên, vấn đề này không đơn giản. Về các “giả thuyết” mà Higashino đã đề cập ở trên, nghiên cứu tiếp theo của của Takayuki Tanaka trong cuốn “U ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Điểm mấu chốt ở đây là bối cảnh các chuyến viếng thăm của các tăng sư như Phật Triết. Tại đây có câu chuyện lịch sử thú vị liên quan đến các sứ thầ ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Cách thời điểm kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam đúng 10 năm, vào mùa hè (từ ngày 7/7 đến 22/9) năm 2013, nhân kỷ niệm 40 năm t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn