GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

VẤN ĐỀ BẢO TỒN NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG Ở NHẬT BẢN

Đăng ngày: 4-11-2015, 08:44

Một nền kinh tế đứng thứ ba trên Thế giới, một xã hội hậu công nghiệp hiện đại, nổi tiếng với các sản phẩm sản xuất hàng loạt và văn hóa tiêu dùng ồ ạt, nhưng lại biết trân trọng và gìn giữ những giá trị truyền thống, đó là đất nước Nhật Bản - nơi nghề thủ công truyền thống đã trở thành biểu tượng của văn hóa và sức sống địa phương. Vậy thì, người Nhật Bản đã gìn giữ nghề thủ công truyền thống độc đáo cùng với kỹ thuật chế tác phong phú, điêu luyện như thế nào, đã tôn vinh người thợ thủ công ra sao trong làn sóng công nghiệp hóa của xã hội hiện đại? Đó chính là những vấn đề sẽ được bàn đến trong bài viết này. Bài viết dựa trên các kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Bộ “Vấn đề bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản”[1] và loạt bài giảng về “Việc kế thừa kỹ nghệ và văn hóa truyền thống nhìn từ nghề thủ công truyền thống và lễ hội” tại Workshop “Nghiên cứu lịch sử, văn hóa Nhật Bản”[2] tại Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

1. Nghề thủ công truyền thống trong xã hội hiện đại - Sự cân bằng giá trị văn hóa, xã hội.

Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, cùng với việc từ bỏ quyền sở hữu quân đội và tham gia chiến tranh, Nhật Bản nhanh chóng bước vào quỹ đạo phát triển kinh tế thần kỳ. Chỉ trong vòng 10 năm, kể từ khi bại trận năm 1945, đến năm 1956 Nhật Bản tuyên bố đã đạt được thu nhập bình quân đầu người gấp 1,5 lần và tổng sản lượng công nghiệp cao gấp 2 lần so với giai đoạn thịnh vượng nhất trước đó (năm 1939). Từ năm 1955 đến 1973, tăng trưởng kinh tế liên tục đạt trên 10%, đưa đất nước Nhật Bản trở thành nền kinh tế thứ nhì thế giới và bước vào xã hội tiêu dùng xa xỉ hàng đầu thế giới.

Tuy nhiên, cú sốc dầu lửa 1973 lần đầu tiên đã làm thay đổi cách nhìn nhận của người Nhật Bản nói riêng và thế giới nói chung về mô hình phát triển chỉ dựa vào tăng trưởng kinh tế - “Mô hình kinh tế nâu (brown economy)”. Người Nhật Bản cũng nhanh chóng nhận ra cái giá phải trả cho việc ưu tiên phát triển kinh tế, đó là môi trường bị hủy hoại, sức khỏe người dân bị đe dọa nghiêm trọng, và dường như sự giàu có về kinh tế chưa hẳn đã tỉ lệ thuận với chất lượng cuộc sống. Và thế là họ bắt đầu nhìn nhận lại giá trị của các sản phẩm thủ công truyền thống được lịch sử nuôi dưỡng lâu đời, kỳ vọng nó “sẽ đem đến cho cuộc sống hiện tại một phong vị riêng, có ý nghĩa về chất, làm cho cuộc sống thực sự đầy đủ và phong phú”[3].

Một lý do nữa khiến cho nước Nhật nhìn nhận lại vai trò và giá trị của nghề thủ công truyền thống, đó là xu hướng di dân ra thành phố, đô thị hóa trong những năm 1960-1970 đã làm cho nhiều vùng nông thôn bị hoang hóa, già hóa dân số và thiếu vắng nguồn nhân lực phát triển địa phương. Để ngăn chặn tình trạng di dân ra thành phố, cũng như làm hình thành các “khu vực tự lực cánh sinh” có khả năng phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có ở khu vực thì việc bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống vốn có của địa phương trở thành một giải pháp hữu hiệu. Mỗi địa phương đều có lịch sử và đặc điểm văn hóa riêng, vì vậy mà xây dựng khu vực nghề thủ công truyền thống (sanchi (産地): làng nghề) chính là “xem xét, kiểm chứng lại tinh hoa văn hóa và sự giàu có của thiên nhiên tại mỗi khu vực để từ đó phát huy nội lực”. Nghề thủ công truyền thống còn được kỳ vọng sẽ đóng vai trò “làm sứ giả truyền bá văn hóa Nhật Bản với thế giới bên ngoài”, bởi sự tinh xảo, tính thẩm mỹ và kỹ thuật điêu luyện được tích lũy trong mỗi sản phẩm sẽ khiến cho người nước ngoài cảm nhận được chiều sâu cùng độ tinh tế của văn hóa Nhật Bản. Phát triển một nền sản xuất thủ công truyền thống gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên ở mỗi địa phương đang là định hướng của một nền kinh tế - xã hội sử dụng đồ tái chế, tiết kiệm tài nguyên và không gây ô nhiễm môi trường.

2. Giải pháp bảo tồn nghề thủ công truyền thống của Nhật Bản

Nhận thức được rằng, di sản văn hóa là chìa khóa thiết yếu để mở ra cánh cửa cửa cho việc tìm hiểu tìm hiểu chính xác về lịch sử, truyền thống dân tộc, chính phủ Nhật Bản đã sớm ban hành hệ thống chính sách và luật bảo tồn các tài sản văn hóa truyền thống, trong đó có nghề thủ công truyền thống. Bên cạnh Luật Bảo tồn di sản văn hóa ban hành năm 1950, Luật phát triển nghề thủ công truyền thống (gọi tắt là Luật nghề truyền thống) đã được ban hành ngày 25/5/1974.

Nội dung cốt lõi nhất của Luật phát triển nghề thủ công truyền thống là đưa ra Nguyên tắc xác định sản phẩm thủ công, Nguyên tắc chính quyền địa phương bảo lãnh, Xây dựng kế hoạch phát triển và chính sách hỗ trợ, Nguyên tắc đào tạo đội ngũ kế nghiệp, Marketing, Giới thiệu kỹ thuật thủ công truyền  thống, Nghiên cứu vật liệu, Sử dụng lao động địa phương và Thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm. Có thể nói, quy trình căn bản để lựa chọn và bảo tồn, phát triển mỗi nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản đã được quy định một cách cụ thể và minh bạch theo Luật.

- Nguyên tắc xác định sản phẩm thủ công truyền thống: một sản phẩm được công nhận là sản phẩm thủ công truyền thống chỉ khi đáp ứng đủ 5 tiêu chuẩn:① Được tạo ra bởi kỹ thuật điêu luyện và có yếu tố nghệ thuật; ② Phải là mặt hàng chủ yếu phục vụ đời sống hàng ngày; ③ Phải có tính thủ công nghiệp, với các công đoạn sản xuất chính được thực hiện bằng tay; ④ Phải được chế tạo bởi kỹ thuật truyền thống có lịch sử 100 năm trở lên; ⑤ Phải được sản xuất trong một khu vực nhất định (gọi là sanchi), trong đó có ít nhất 10 cơ sở sản xuất và 30 người theo nghề.

- Nguyên tắc chính quyền địa phương làm người bảo lãnh: phát triển nghề thủ công truyền thống được coi là giải pháp quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế địa phương, do đó chính quyền địa phương phải đóng vai trò cốt yếu. Cụ thể, khi địa phương đưa yêu cầu tài trợ cho một dự án phát triển nghề truyền thống, Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm một nửa, còn nửa còn lại do địa phương đảm nhận. Luật nghề truyền thống còn quy định người đại diện cho chính quyền địa phương (thống đốc hay thị trưởng) cần bảo lãnh cho sản phẩm ở giai đoạn xét duyệt.

- Kế hoạch phát triển và chính sách hỗ trợ: Luật quy định các địa phương có nghề thủ công truyền thống phải xây dựng kế hoạch phát triển trên các mặt sau: ① Công tác đào tạo, dạy nghề để luôn đảm bảo số người nối nghiệp theo nghề; ② Những công việc liên quan đến kế thừa và cải tiến kỹ thuật, thủ pháp, đảm bảo duy trì và cải tiến chất lượng sản phẩm; ③ Nghiên cứu nguyên vật liệu và đảm bảo nguồn nguyên liệu; ④ Những công việc liên quan đến khai thác nhu cầu; ⑤ Cải tiến cơ sở sản xuất và môi trường sản xuất; ⑥ Cộng đồng hóa việc mua nguyên vật liệu, bán sản phẩm và những công việc khác (thông qua các tonya)[4]; ⑦ Đảm bảo chất lượng, cung cấp thông tin chính xác và cần thiết cho người tiêu dùng; ⑧ Những công việc liên quan đến phúc lợi y tế của người lao động, nghệ nhân đang theo nghề và khi về hưu; ⑨ Lập kế hoạch các hạng mục công việc cần thiết khác nhằm khôi phục và phát triển nghề thủ công truyền thống. Dựa trên bản kế hoạch 9 điều khoản này, các biện pháp hỗ trợ về vốn, chính sách thuế sẽ được áp dụng. Năm 1992, Luật Phát triển nghề thủ công truyền thống sửa đổi đã quy định thêm tổng mức bao cấp để phát triển nghề thủ công là 1 tỷ yên/năm (8 triệu USD), trong đó mức hỗ trợ trực tiếp vào khu vực sản xuất[5] là 200 triệu yên (1,6 triệu USD), hỗ trợ cho các cơ sở làm nghề là 800 triệu yên (6,4 triệu USD).

- Đào tạo đội ngũ kế nghiệp: hình thức đào tạo chủ yếu có hai loại, thứ nhất là các nghệ nhân có tay nghề cao (được công nhận là “người làm công tác bảo tồn”)  truyền thụ bí quyết nghề cho một số thợ học việc tại cơ sở sản xuất của họ (chế độ đồ đệ); thứ hai là chính họ giảng dạy tại các trường nghề của địa phương (chế độ nhà trường). Hiện nay, hầu hết mỗi khu vực sản xuất (sanchi) đều có hệ thống đào tạo riêng.

- Công tác marketing: để thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng của người dân đối với sản phẩm thủ công truyền thống, hàng năm, mỗi nơi đều tổ chức các cuộc triển lãm trưng bày sản phẩm của địa phương mình. Trong tổng số vốn 1 tỷ yên/năm được Nhà nước tài trợ, 800 triệu yên được chi cho các dự án khai thác nhu cầu. Tuy nhiên, lượng tiền đến được với mỗi khu vực sản xuất không nhiều, do có khá nhiều khu vực sản xuất (sanchi) như vậy.

- Công khai kỹ thuật thủ công truyền thống - Xây dựng Nhà triển lãm thủ công quốc gia: Nhật Bản coi trọng việc “công khai hóa” và coi đó là phương thức bảo tồn nghề thủ công truyền thống một cách hữu hiệu. Các cuộc triển lãm gắn liền với việc trau dồi, nâng cao “kỹ thuật” của các nghệ nhân, đồng thời cũng có tác dụng nuôi dưỡng lòng yêu nghề, say mê với nghề của đội ngũ kế nghiệp. Đến nay, đã có khoảng 30 tòa nhà triển lãm được xây dựng ở các làng nghề và các thành phố lớn, trên 60 kỳ triển lãm được tổ chức từ năm 1974 đến nay, trong đó có các triển lãm nổi tiếng như “Triển lãm nghề thủ công truyền thống Nhật Bản”, “Triển lãm kỹ nghệ và vẻ đẹp Nhật Bản – một di sản văn hóa tinh thần quan trọng và giới thiệu người làm công tác bảo tồn”, “Triển lãm các tác phẩm văn nghệ dân gian quý của quốc gia”, “Triển lãm các tác phẩm xuất sắc của đoàn thể làm công tác bảo tồn - Thế giới của kỹ nghệ và vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản”... Đây còn là cơ hội để giao lưu giữa người sản xuất và người tiêu dùng, trao đổi thông tin, nâng cao hiệu quả quản lý các làng nghề.

- Nghiên cứu nguyên vật liệu: Việc nghiên cứu nguyên vật liệu thay thế cho vật liệu truyền thống đang ngày một cạn kiệt là việc làm cần thiết. Trên thực tế, hiện nay sợi tơ thô trong sản xuất vải lụa, sơn ta dùng trong sơn mài, vật liệu gỗ và đá quý, vật liệu làm giấy truyền thống Nhật Bản... lại đều phụ thuộc vào nhập khẩu. Chính vì vậy mà có rất nhiều dự án tìm kiếm nguyên vật liệu thay thế, sản xuất hàng mẫu bằng nguyên vật liệu mới được thực hiện ở nước ngoài.

- Sử dụng lao động địa phương: Một trong những điểm trọng tâm của Luật Nghề truyền thống sửa đổi là “tận dụng tối đa nguồn lao động tại địa phương”, “tập trung phát triển sản phẩm mới sử dụng kỹ thuật truyền thống” bằng cách kết hợp các ý tưởng từ nhiều ngành nghề khác nhau. Chính sách này mang tính “mở” cho các đối tượng tự nguyện, nên thu hút được sự chú ý của đông đảo người dân địa phương.

- Thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới: trong thời đại tiêu dùng đa dạng, phong phú như ngày nay, các sản phẩm thủ công truyền thống Nhật Bản không thể giữ nguyên mẫu mã cũ, bởi phải cạnh tranh với hàng hóa cao cấp mẫu mã đẹp của châu Âu và hàng thông thường giá rẻ từ châu Á tràn vào. Có dự án “Hỗ trợ phát triển mẫu mã cho các ngành nghề địa phương”, mỗi năm 2 địa phương được chọn để nhận hỗ trợ, dự án thực hiện trong vòng 4 năm với tổng kinh phí lên tới 1 tỷ yên. Trong năm đầu tiên, thành lập cơ quan quản lý dự án với tên gọi “Phòng phát triển mẫu mã địa phương”, năm thứ hai kêu gọi các tổ chức tham gia thực hiện dự án (trường hợp ít nhất là 5-6 cơ sở, nhiều nhất có tới 900 cơ sở tham gia), năm thứ ba thực hiện sản xuất thử nghiệm mặt hàng mới với sự hợp tác của các nhà thiết kế mẫu mã, năm cuối cùng mở triển lãm trưng bày sản phẩm mới tại Tokyo, lấy ý kiến đóng góp, phê bình của các nhà chuyên môn và người tiêu dùng.

Trải qua hơn 40 năm thực hiện Luật Nghề thủ công truyền thống, ở Nhật Bản hiện nay đã có 222 sản phẩm thủ công truyền thống được công nhận làm đối tượng bảo tồn, có 69.635 người theo nghề, 13.567 cơ sở sản xuất với tổng doanh thu từ nghề thủ công truyền thống đạt 104 tỷ yên (880 triệu USD) hàng năm[6].

Ngô Hương Lan, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á


[1] Hồ Hoàng Hoa (chủ biên) Vấn đề bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản, NXB.Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004 (Đề tài cấp Bộ “Vấn đề bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản”, Thành viên đề tài: Hồ Hoàng Hoa, Ngô Hương Lan, Trần Quang Minh, Nguyễn Duy Dũng).

[2] Higuchi Hiromi, Tập bài giảng “Việc kế thừa kỹ nghệ và văn hóa truyền thống nhìn từ nghề thủ công truyền thống và lễ hội” tại Workshop “Nghiên cứu lịch sử, văn hóa Nhật Bản”, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, từ 3/9-9/9/2015.

[3] Hồ Hoàng Hoa (chủ biên) Vấn đề bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản, NXB.Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004 (Đề tài cấp Bộ “Vấn đề bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản”, Thành viên đề tài: Hồ Hoàng Hoa, Ngô Hương Lan, Trần Quang Minh, Nguyễn Duy Dũng).

[4] Tonya (問屋) giữ vai trò là người điều phối toàn bộ quy trình sản xuất của một sản phẩm thủ công tại một sanchi (làng nghề) từ khâu nhận đơn đặt hàng (đầu vào) đến lưu thông hàng hóa (đầu ra). Nguồn: Bài giảng của GS.Higuchi Hiromi, Đại học Senshu tại Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á ngày 4/9/2015 (Bài giảng 2, tr.33).

[5] Khu vực sản xuất có thể hiểu là một “làng nghề” (sanchi), còn cơ sở sản xuất tương đương với một công ty (hoặc hộ gia đình) làm nghề.

[6] Số liệu công bố năm 2012 của Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản. Nguồn: Bài giảng của GS.Higuchi Hiromi, Đại học Senshu tại Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á ngày 4/9/2015 (Bài giảng 2, tr.8).

Tin tức khác

CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN
CHỮ HÁN “KIM” ĐƯỢC BÌNH CHỌN LÀ CHỮ HÁN NĂM 2024 CỦA NHẬT BẢN

Ngày 12/12, Hiệp hội Kiểm tra năng lực chữ Hán (Kanji) của Nhật Bản đã chính thức công bố chữ Hán của năm 2024 là "Kim" (金). Đây là lần thứ năm t ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Tuy nhiên, vấn đề này không đơn giản. Về các “giả thuyết” mà Higashino đã đề cập ở trên, nghiên cứu tiếp theo của của Takayuki Tanaka trong cuốn “U ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Điểm mấu chốt ở đây là bối cảnh các chuyến viếng thăm của các tăng sư như Phật Triết. Tại đây có câu chuyện lịch sử thú vị liên quan đến các sứ thầ ...

GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...
GÓC NHÌN MỚI VỀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC CỔ NHẬT BẢN DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA KỶ NGUYÊN 50 NĂM QUA ...

Cách thời điểm kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam đúng 10 năm, vào mùa hè (từ ngày 7/7 đến 22/9) năm 2013, nhân kỷ niệm 40 năm t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn