GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở NHẬT BẢN (Phần 1)

Đăng ngày: 5-01-2017, 13:30

1. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Nhật Bản hiện nay

Thúc đẩy công cuộc cải cách giáo dục đại học, đáp ứng kỳ vọng đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp cho sự phát triển của xã hội, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã tiến hành cải cách kết nối giáo dục THPT và đại học (高大接続改革), tăng cường học tập tích cực (アクティブ・ラーニング), nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của các trường đại học, xây dựng môi trường giáo dục và nghiên cứu có khả năng sáng tạo, đổi mới, chú trọng tăng cơ hội học tập hoặc đào tạo lại cho người đang đi làm. Những nội dung cải cách chính như sau:

Thứ nhất, trong Hội nghị tư vấn giáo dục Trung ương, hưởng ứng lời kêu gọi “hồi sinh giáo dục” của Hội nghị chấn hưng giáo dục, hội nghị đã tiến hành điều tra và tham vấn các chính sách nhằm tăng cường liên kết, kết nối một cách linh hoạt giáo dục THPT (cấp 3) và giáo dục đại học mà trước hết là đổi mới cơ chế tuyển sinh đại học. Ngày 22/12/2014, Hội nghị tư vấn giáo dục đã đề ra chiến lược “Cải cách đồng loạt giáo dục THPT, giáo dục đại học và tuyển sinh đại học hướng tới kết nối trường THPT và đại học phù hợp với thời đại mới”. Trên cơ sở tiếp nhận ý kiến của Hội đồng tư vấn giáo dục, Bộ giáo dục Nhật Bản ban hành “Kế hoạch thực hiện cải cách kết nối THPT và đại học” vào ngày 16/1/2015, đó là một kế hoạch cải cách tổng thể giáo dục THPT, giáo dục đại học và cơ chế tuyển sinh đại học. Để thu hút ý kiến đóng góp của các chuyên gia, “Hội nghị cải cách hệ thống kết nối THPT và đại học” (chủ tọa: Anzai Yuichiro, cố vấn Bộ Giáo dục Nhật Bản, Tổng thư ký Hiệp hội chấn hưng học thuật Nhật Bản), tháng 3/2016 đã đưa ra báo cáo cuối cùng với sự hợp tác, tham vấn của các cơ quan liên quan.

Tháng 3/2016, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã đề ra 3 phương châm lớn về đường hướng cải cách để các trường đại học tham khảo, đó là: “Phương châm xét tốt nghiệp và cấp bằng” (Diploma policy), “Phương châm sửa đổi chương trình đào tạo” (Curriculum policy), “Phương châm tiếp  nhận sinh viên” (Admission policy). Ngoài ra, Bộ giáo dục còn chủ chương hoàn thiện “chức năng đảm bảo chất lượng nội bộ”, coi chức năng đảm bảo chất lượng nội bộ như một chu trình tự cải cách của các trường đại học.

Bên cạnh đó, để thúc đẩy một cách hiệu quả và thiết thực các hoạt động nghiên cứu giáo dục tại các trường đại học, Bộ giáo dục cũng đã sửa đổi các quy định liên quan đến việc tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ cho cán bộ đang làm việc tại các trường đại học (không chỉ nhân viên hành chính mà bao gồm cả giáo viên, kỹ thuật viên) trong chương trình “Phát triển nhân viên” (Staff development).

Thứ hai là về đào tạo trên đại học, tháng 9/2015, Hội đồng tư vấn giáo dục Trung ương đã tổng kết tiến trình “Cải cách giáo dục trên đại học hướng tới tương lai”. Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã xác định “Yếu lĩnh chỉ đạo tăng cường đào tạo trên đại học lần thứ 3”. Nhiều hội nghị chuyên ngành liên quan đã được tổ chức với sự tham vấn của các chuyên gia giáo dục, nhằm đưa ra những tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá “Cơ quan giáo dục trên đại học chất lượng cao”. Ngoài ra, Phân khoa đại học thuộc Hội đồng tư vấn giáo dục trung ương cũng đã đề xuất việc cải tiến chức năng của các học viện chuyên ngành và học viện Luật.

Thứ ba, liên quan đến phát triển các trường đại học quốc lập có “Chiến lược tái chấn hưng Nhật Bản” sửa đổi năm 2015 - Đầu tư cho tương lai - Cách mạng sản xuất” (Nội các Nhật Bản ban hành 30/6/2015); “Chiến lược xúc tiến nâng cao năng lực quản lý đại học quốc lập” (16/6/2015), đánh giá lại chế độ cấp kinh phí vận hành các trường đại học pháp nhân quốc lập kế hoạch trung hạn lần thứ 3 bắt đầu từ năm 2016; chú trọng đầu tư trọng điểm cho các trường đại học vận hành tốt chu trình tự cải cách, tăng cường chức năng đào tạo của các trường đại học tầm nhìn tương lai; mở rộng sự tự do hóa trong cơ cấu hành chính tổ chức nhằm nâng cao năng lực tự quản lý và kinh doanh của các trường đại học quốc lập, thực hiện chế độ “Chỉ định pháp nhân đại học quốc lập”, nâng cao tính cạnh tranh của các trường đại học trong thời đại toàn cầu hóa, sửa đổi luật pháp nhân đại học quốc lập (12/5/2016 đã ban hành luật sửa đổi).

Thứ tư, tại Hội nghị chấn hưng giáo dục Nhật Bản, nhiều chuyên gia đã đưa ra quan điểm về một hệ thống giáo dục mới phù hợp với sự tiến triển của thời đại toàn cầu hóa, xã hội già hóa và ít trẻ em. Ngày 3/7/2014, Hội nghị đã đệ trình chính phủ báo cáo “Quan điểm mới về hệ thống trường học và hệ thống giáo dục”. Ngay sau đó, Bộ Giáo dục đã triệu tập Hội nghị giáo chức, trong đó thảo luận về phương hướng xây dựng hệ thống cơ quan giáo dục bậc cao thực hiện chương trình đào tạo nghề thực tiễn. Sau đó, tháng 3/2015, bản tóm tắt kết quả hội nghị này đã được công bố, mở đầu cho việc thành lập một bộ phận mới đặc biệt trong Hội đồng tư vấn giáo dục trung ương, những điều kiện cơ bản của việc cải tiến hệ thống giáo dục đã được bàn đến.

Thứ năm, dựa trên “Chiến lược tổng hợp về sáng tạo thành phố - con người  - công việc” (bản sửa đổi năm 2015, Nội các thông qua ngày 24/12/2015), Bộ Giáo dục Nhật Bản đã lên kế hoạch hỗ trợ cho các trường đại học để có thể cống hiến hiệu quả hơn cho việc đào tạo nguồn nhân lực cần thiết cho việc phát hiện và giải quyết các vấn đề của mỗi địa phương.

Ngoài ra, liên quan đến cải cách còn có Luật sửa đổi bổ sung của “Luật giáo dục nhà trường” và Luật sửa đổi một phần của “Luật pháp nhân đại học quốc lập” được ban hành vào tháng 4/2015. Các trường đại học đã xác định quy tắc nội bộ về Chiến lược vận hành bộ máy nhà trường, tình hình thực tế của các trường luôn được nắm bắt một cách kịp thời.

Với khẩu hiệu “Phát triển xã hội 100 triệu dân” chế độ cung cấp học bổng, giảm thiểu gánh nặng học phí cho những thanh niên có ý chí và khả năng học tập được hưởng giáo dục đại học mà không phụ thuộc và điều kiện kinh tế gia đình đã được nhiều trường đại học và địa phương thực hiện.

Tại các trường THPT chuyên nghiệp trước đây vốn chỉ chú trọng đến đào tạo nhân lực phục vụ trực tiếp cho sản xuất, thì hiện nay dựa trên dự báo về cơ cấu lao động việc làm và cơ cấu các ngành sản xuất trong tương lai, các chương trình đào tạo nguồn nhân lực ở các lĩnh vực ngoài khoa học tự nhiên cũng đang được chú trọng hoàn thiện.

2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời gian tới

a. Nâng cao chất lượng đào tạo đại học hướng tới khả năng chủ động học tập của sinh viên

i. Các quy chế và cơ cấu hỗ trợ

Theo “Quy tắc thực hiện Luật giáo dục nhà trường” ở Nhật Bản được sửa đổi tháng 3/2016, từ năm 2017 các trường đại học sẽ có nghĩa vụ cải cách theo 3 trục: “Xét tốt nghiệp và cấp bằng” (Diploma policy), “Sửa đổi chương trình đào tạo” (Curriculum policy), “Sửa đổi cơ cấu tuyển sinh” (Admission policy). Hiện nay, các trường đại học đang xúc tiến cải cách trên 3 trục này, đồng thời cũng bắt đầu mở rộng chương trình “học tập tích cực” (active learning), hoàn thiện hệ thống đánh giá đi đôi với quản lý giáo dục theo chu trình PDCA (Plan - Do - Check - Action), hướng tới thay đổi về chất trong đào tạo đại học, nuôi dưỡng tri thức, kỹ thuật, khả năng tư duy, năng lực phán đoán, biểu hiện và tính đa dạng ở mỗi sinh viên.

Các quy chế và cơ cấu hỗ trợ cho các trường đại học bao gồm:

(1) Chương trình Hồi sinh nhanh giáo dục: cho đến năm 2015 đã có 58 quy chế được xác lập nhằm mục đích đẩy nhanh quá trình chuyển đổi về chất trong đào tạo đại học, bao gồm cả ưu tiên các chương trình “học tập tích cực”, trực quan hóa kết quả học tập, cải cách thi đầu vào đại học, liên thông THPT và Đại học, Chương trình học tập dài hạn ngoài trường học...

(2) Chương trình liên kết đào tạo giữa các trường đại học: Bộ giáo dục hỗ trợ trực tiếp cho các dự án trọng điểm về liên kết đào tạo giữa các trường đại học công và tư, chế độ cấp bằng liên kết, nhằm khuyến khích sự hợp tác giữa các trường đại học trong cùng địa phương, có cùng ngành nghề đào tạo, bất kể là trường công hay tư, hoặc tư cách pháp nhân khác nhau giữa các trường.

(3) Áp dụng chế độ các cơ quan giáo dục cùng sử dụng chung cơ sở đào tạo (chương trình FD-SD) [1]: cơ chế này đã được Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nhật Bản thông qua với 8 trường đại học và 9 cơ quan chuyên môn được chọn để sử dụng làm cơ sở liên kết đào tạo giáo viên và nhân viên của các trường đại học (FD-SD) nhằm nâng cao chất lượng tổng thể của các trường đại học. Riêng năm 2015 có 4 cơ sở đào tạo liên kết mới được thông qua và đưa vào sử dụng.

ii. Đào tạo đại học ngắn hạn (cao đẳng)

Chương trình đào tạo và cấp bằng cử nhân đại học ngắn hạn nhằm mục đích phát huy vai trò của các trường đại học ngắn hạn (trường cao đẳng) trong bình đẳng giáo dục bậc cao, tạo cơ hội cho mọi người đều có thể thụ hưởng giáo dục đại học, đồng thời cân bằng giữa đào tạo chuyên sâu và đào tạo nghề, để các trường đại học có thể trở thành nơi tạo ra cơ hội học tập suốt đời cho mọi người dân, mọi lứa tuổi, ở mọi địa phương.

iii. Đào tạo trên đại học

Dựa trên bản đề xuất “Cải cách giáo dục trên đại học đột phá tương lai” của Hội nghị tư vấn giáo dục trung ương tháng 9/2015 và “Yếu lĩnh thực hiện đẩy mạnh Đào tạo Trên đại học lần thứ 3” tháng 3/2016, công cuộc cải cách giáo dục - đào tạo trên đại học dưới sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục đã đi vào chiều sâu.

Cụ thể, đã có 62 chương trình cải cách trên đại học từ năm 2011 đến 2015 được sự tài trợ của Bộ Giáo dục Nhật Bản. Một cuộc cải cách giáo dục bậc cao (cải cách các học viện trên đại học) đã được thực hiện một cách triệt để nhằm xây dựng và phát triển chương trình nhất thể hóa đào tạo tiến sĩ giai đoạn 1 và giai đoạn 2 [2] ở những chuyên ngành chủ chốt, liên kết “giới sản xuất - giới giáo dục và giới quản lý” (liên kết “quan - sản - học”) trong chương trình đào tạo tiến sĩ với mục đích đào tạo nguồn nhân lực toàn cầu hóa phục vụ trong các lĩnh vực khác nhau.

Ngoài ra, còn có dự án hợp tác chặt chẽ giữa nhiều trường đại học, các công ty tư nhân, các cơ quan nghiên cứu quốc lập, đồng thời liên kết với các trường đại học danh tiếng trên Thế giới để tạo ra những “Trường  đại học xuất sắc” đạt tiêu chuẩn Thế giới về giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu.

Có thể nói, đã có một cuộc cải cách mạnh mẽ trong giáo dục bậc cao hướng tới đào tạo những “chuyên gia tri thức” - nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho toàn cầu hóa, có khả năng tạo ra tri thức mới mẻ bằng chuyên môn sâu cùng kỹ năng phán đoán, tư duy và giải quyết vấn đề một cách logic.

iv. Cải cách chế độ tuyển sinh và nhập học đại học

- Cơ chế tuyển sinh đại học

Để đánh giá đúng năng lực, nguyện vọng và sự thích hợp của sinh viên khi được nhận vào trường đại học, các trường đang áp dụng phương pháp đánh giá đa phương diện, đa dạng trong tuyển sinh đại học như kỳ thi nhập học AO (admition office), chế độ đề cử vào đại học kết hợp các phương pháp phỏng vấn trực tiếp, viết bài luận… Cũng có một số ý kiến cho rằng kỳ thi nhập học AO và phương thức xét tuyển chưa phản ánh được đầy đủ khả năng học tập của thí sinh, do vậy, hàng năm các trường đều phải tổ chức kỳ thi đánh giá năng lực, đồng thời dựa vào bản điều tra để đánh giá trình độ sinh viên, bên cạnh đó, mỗi trường không tự ra đề thi, mà phải sử dụng tích cực các bài thi tư cách, các bài thi kiểm định có giá trị chung trên toàn Nhật Bản (27/5/2015, Thông báo của Cục trưởng Cục quản lý giáo dục bậc cao “Yếu lĩnh chỉ đạo thực hiện tuyển sinh đại học năm 2016).

- Kỳ thi vào đại học

Kỳ thi trung tâm (大学入試センター試験) là kỳ thi phổ biến được áp dụng ngay từ Năm Bình Thành thứ 2 (năm 1990) trên toàn đất nước Nhật Bản. Đây là kỳ thi được các trường đại học kết hợp với các Trung tâm khảo thí đầu vào đại học tổ chức ngay trong giai đoạn học sinh đang còn ngồi trên ghế nhà trường THPT để kiểm tra trình độ cơ bản của học sinh THPT trước khi vào đại học. Theo thống kê của Bộ Giáo dục Nhật Bản, năm 2016 có 693 trường đại học, 157 trường đại học ngắn hạn và 560.000 học sinh tham gia kỳ thi Trung tâm (chiếm khoảng 70% số người có nguyện vọng vào đại học). Có thể nói, đây là kỳ thi có quy mô rất lớn. Kỳ thi Trung tâm được tổ chức vào tháng 1/2016 vừa qua là kỳ thi lần đầu tiên áp dụng đề bài được tham khảo từ tất cả các sách giáo khoa và các môn học được chỉ định trong Yếu lĩnh chỉ đạo học tập hiện hành, được ban hành năm 2012.

Ngô Hương Lan, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á

[1] Chương trình FD: Chương trình Phát triển khoa đào tạo (faculty development - ファカルティ・ディベロップメント). Đây là tên gọi tắt của Chương trình cải tiến phương pháp và nội dung giảng dạy của giáo viên. Cụ thể là, nhóm giáo viên dự giờ và cùng tham gia giảng dạy, sau đó tổ chức họp hội nghiên cứu để nhận xét và góp ý về phương pháp giảng dạy cho giáo viên chính. Ngoài ra, đối với giáo viên mới vào nghề, thường xuyên tổ chức họp góp ý về phương pháp và nội dung giảng dạy.

Chương trình SD: Chương trình Phát triển nhân viên (staff development). Chương trình dành cho đối tượng nhân viên hành chính và kỹ thuật viên của trường. Chương trình này được tổ chức để hỗ trợ nâng cao chất lượng giáo dục mà cụ thể là nâng cao năng lực quản lý và hỗ trợ cho nghiên cứu giáo dục.

[2] Ở Nhật Bản, đào tạo tiến sĩ được chia làm 2 giai đoạn, tiền kỳ và hậu kỳ. Tiền kỳ - giai đoạn 1 là giai đoạn tương đương với trình độ thạc sĩ. Hậu kỳ - giai đoạn 2 có thể kéo dài nhiều năm sau đó, cho đến khi người học lấy được học vị tiến sĩ.

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn