GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở NHẬT BẢN (Phần 2)

Đăng ngày: 5-01-2017, 13:59

v. Xác lập cơ chế chung đảm bảo chất lượng dạy học đại học

- Chế độ công nhận cơ sở đào tạo

Việc thẩm định chất lượng và cấp giấy phép hoạt động cho các trường đại học được thực hiện định kỳ, nhằm đảm bảo tính quốc tế hóa trong giáo dục và yêu cầu xã hội hóa, “thông dụng hóa” giáo dục đại học. Khi nhận được đơn đề nghị thẩm định và cấp phép hoạt động của các trường đại học, Bộ trưởng Bộ Giáo dục sẽ tham vấn ý kiến của Hội đồng thẩm tra tư cách pháp nhân trường học, lấy ý kiến của các chuyên gia trong ngành để xem xét những nội dung xin cấp phép có phù hợp với tiêu chuẩn của một cơ sở đào tạo đại học hay không. Hội đồng thẩm định sẽ xem xét và trả lời dựa trên kết quả thẩm định cụ thể về phương diện giáo dục, phương diện tài chính và phương diện quản lý của trường đại học đó rồi có báo cáo cụ thể với Bộ trưởng. Dựa trên các kết quả được báo cáo và tư vấn, Bộ trưởng sẽ ra quyết định công nhận hay không công nhận.

Song song với đó, để đảm bảo chất lượng đào tạo đáp ứng được với sự thay đổi của xã hội và sự phát triển nhanh chóng của tri thức khoa học kỹ thuật, mỗi trường đại học nếu có sự thay đổi về ngành nghề đào tạo hoặc cấp học vị chuyên ngành, cần thiết phải báo cáo và có đơn xin cấp phép gửi đến các cơ quan giáo dục chủ quản.

Sau khi các trường đại học được cấp phép hoạt động, về cơ bản, các trường chủ động và tự lập trong việc tổ chức các hoạt động đào tạo của mình, song Bộ Giáo dục vẫn có phương án kiểm tra chất lượng sau khi cấp phép như: yêu cầu báo cáo tình hình hoạt động và cơ cấu giáo viên bằng văn bản, hoặc bằng trực tiếp trả lời phỏng vấn và thực hiện kiểm tra định kỳ trong Chương trình “After care” (設置計画履行状況等調査- Kiểm tra tình hình hoàn thành kế hoạch hoạt động). Kết quả của các cuộc kiểm tra đều được công bố rộng rãi, đặc biệt đối với những trường có vấn đề thì Bộ có ý kiến cụ thể để nhà trường tự cải thiện tình trạng của mình.

- Chế độ công nhận và đánh giá

Chế độ công nhận và đánh giá là chế độ được thực hiện theo Luật Giáo dục nhà trường, trong đó Bộ trưởng Bộ Giáo dục yêu cầu định kỳ thực hiện 7 năm 1 lần đối với tất cả các cơ sở giáo dục bậc cao bao gồm các trường đại học quốc lập, công lập, tư lập và các trường đại học hệ ngắn hạn, các trường THPT dạy nghề... (riêng đối với cơ sở đào tạo chuyên ngành sau đại học thì yêu cầu thực hiện 5 năm 1 lần). Đây là chế độ Bên thứ 3 đánh giá, tức là các cơ quan đánh giá được Bộ trưởng Bộ giáo dục công nhận sẽ tiến hành đánh giá về chất lượng đào tạo, về các hoạt động nghiên cứu... tại các cơ quan giáo dục bậc cao, nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục bậc cao ở Nhật Bản. Tính đến tháng 4/2016 đã có 12 Cơ quan đánh giá thực hiện hoạt động đánh giá của Bên thứ 3.

Tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá của mỗi Cơ quan “Bên thứ 3” rất khác nhau, tùy theo kết quả đánh giá mà các trường đại học sẽ được yêu cầu về những vấn đề cần cải tiến, yêu cầu nộp các báo cáo kế hoạch cải tiến giáo dục và đồng thời các cơ quan đánh giá cũng có trách nhiệm hỗ trợ những trường đại học này thực hiện sửa đổi, cải thiện tình trạng giáo dục, đào tạo ở trường mình.

Tháng 3/2016, Hội nghị tư vấn giáo dục trung ương, Phân khoa đại học đã bàn đến việc hoàn thiện hơn nữa chế độ “Bên thứ 3 đánh giá”, trong đó sẽ quy định cụ thể các khoản mục mà cơ quan Bên thứ 3 cần thẩm tra và đánh giá (dự định từ tháng 3/2016 sẽ ban hành quy định sửa đổi, từ năm 2018 sẽ bắt đầu thực hiện ở Quy trình đánh giá lần thứ 3. Mục tiêu của việc đánh giá là xác lập cơ chế đảm bảo chất lượng nội bộ (các trường đại học tự chủ và tự lập trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo của trường mình) và đẩy mạnh chuyển biến về chất trong giáo dục bậc cao.

Năm 2015 đã có 154 trường đại học hệ 4 năm, 54 trường đại học ngắn hạn, 02 trường THPT dạy nghề, 01 học viện trên đại học ngành luật, 02 học viện trên đại học ngành kế toán, 08 học viện trên đại học ngành quản trị kinh doanh, 01 học viện trên đại học ngành tư vấn tâm lý, 01 học viện trên đại học ngành kinh doanh thời trang (fashion business), 10 học viện trên đại học ngành sư phạm, 01 học viện trên đại học ngành quản lý giáo dục, 01 học viện trên đại học ngành công nghệ thông tin, 01 học viện trên đại học ngành vệ sinh an toàn thực phẩm đã thực hiện chế độ đánh giá công nhận[1], và các kết quả đánh giá đều được công bố trên trang web của cơ quan thực hiện đánh giá.

vi. Thúc đẩy công khai hóa thông tin

Các trường đại học, với tư cách là cơ quan giáo dục công cộng, phải có trách nhiệm thuyết trình với xã hội về vai trò của mình, đồng thời nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy. Từ tháng 4/2011, theo Quy định thực hiện Luật giáo dục nhà trường, đều phải công bố công khai tất cả các thông tin về hoạt động nghiên cứu và giáo dục của trường mình. Ngoài ra, cơ sở dữ liệu thông tin về tất cả các trường đại học quốc lập, công lập và tư lập đều được công khai hóa trong chương trình “Chân dung đại học” (大学ポートレート) từ tháng 3/2015.

vii. Giáo dục bậc cao mở đối với toàn xã hội và địa phương

+ Khuyến khích các cơ quan giáo dục bậc cao trở thành hạt nhân trung tâm của cộng đồng địa phương

Từ năm 2013, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thực hiện chương trình “Xây dựng cơ sở hỗ trợ cho các trường đại học” (gọi tắt là Chương trình hỗ trợ căn cứ địa phương (hay cứ điểm tri thức) - 「地(知)の拠点整備事業」(大学COC事業)) để các trường đại học, đại học ngắn hạn và THPT dạy nghề (dưới đây gọi chung là “Đại học”) phát huy vai trò chủ đạo của mình trong cộng đồng địa phương bằng cách tăng cường giao lưu, liên kết và hỗ trợ chính quyền địa phương giải quyết những vấn đề xảy ra trong địa phương mình, với khẩu hiệu “Mỗi trường đại học là hạt nhân của Cộng đồng” (COC - Center of Community). Để chương trình thực sự có hiệu quả, một số địa phương đã xây dựng cơ chế hợp tác với sự tham gia của các trường đại học, chính quyền địa phương, các công ty, xí nghiệp nơi sẽ tiếp nhận nguồn nhân lực được đào tạo ở các trường đại học này và các đoàn thể địa phương, các tổ chức NPO hoạt động vì mục đích phát triển địa phương,  nhằm tạo ra các cơ hội việc làm mới cho sinh viên ra trường, tận dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp cho sự phát triển của địa phương mình. Cơ chế hợp tác này mang tên “Dự án các trường đại học tham gia phát triển địa phương” (COC+). Năm 2015, có 42 dự án như vậy, thu hút sự tham gia của 256 trường đại học trên toàn nước Nhật[2].

Ngoài ra, còn có dự án “Cấp học bổng cho sinh viên đại học - nguồn nhân lực đóng góp cho sự phát triển của địa phương”. Dự án hoạt động nhằm giúp cho những học sinh có khó khăn về kinh tế có thể học lên đại học và làm việc tại các cơ sở sản xuất của địa phương, ngoài ra còn khuyến khích các sinh viên thành phố sau khi tốt nghiệp về các địa phương nông thôn làm việc, đóng góp cho sự phát triển của địa phương. Dự án được sự hỗ trợ của Bộ Giáo dục Nhật Bản, Bộ Nội vụ và các công ty kinh doanh, các cơ sở sản xuất của địa phương, thành lập quỹ cho vay học bổng hoặc cấp học bổng không hoàn lại cho thanh niên muốn học đại học và muốn làm việc tại địa phương.

+ Tạo thêm cơ hội được đào tạo lại cho những người đang đi làm

Cùng với “Kế hoạch chấn hưng giáo dục Nhật Bản kỳ hai”[3] Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thực hiện “Chương trình giáo dục tạo cơ hội học tập dễ dàng cho những người đang đi làm” (社会人等が学びやすい教育プログラム), đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp địa phương nói riêng và địa phương nói chung. Chương trình được sự hợp tác của các trường THPT, THPT dạy nghề, trường chuyên tu, trường đại học ngắn hạn, trường đại học và viện đào tạo trên đại học... trong việc giảng dạy và cấp bằng cho những người đang đi làm có nhu cầu học tập nâng cao trình độ.

Cũng nằm trong chương trình này, từ năm 2014 đã có chương trình  trên đại học đào tạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của toàn cầu hóa, trong đó đào tạo tri thức chuyên ngành sâu, kỹ thuật tiên tiến và các tư chất, năng lực cần thiết khác của nguồn nhân lực toàn cầu hóa.

Ngoài ra, để xây dựng xã hội học tập suốt đời, hình thành xã hội mà mọi thành viên trong xã hội cùng được tham gia vào giáo dục, sáng tạo phát triển địa phương, trên cơ sở đề xuất của Hội đồng tư vấn giáo dục trung ương (tháng 3/2015), tháng 7/2015 Bộ Giáo dục đã ban hành “Chương trình đào tạo năng lực nghề nghiệp thực tiễn” (gọi tắt là BP: Brush up Program for professional), trong đó những người đi làm có thể tiếp tục học tập tại các trường đại học, học viện, đại học ngắn hạn, trường THPT dạy nghề..., và được Bộ Giáo dục cấp bằng tốt nghiệp. Tính đến tháng 12/2015, đã có 74 trường đại học và 123 chương trình đào tạo được Bộ Giáo dục phê duyệt thực hiện chương trình này.

Trong chương trình này còn có các chương trình phụ như: Chương trình hỗ trợ phụ nữ đi học lại, nâng cao năng lực làm việc và lãnh đạo, quản lý của phụ nữ, đào tạo phụ nữ giữ vị trí quản lý - “Chương trình phát huy vai trò phụ nữ”[4]; “Chương trình Sáng tạo địa phương” đào tạo nguồn nhân lực gắn với việc kinh doanh các sản phẩm của địa phương, đào tạo nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp địa phương; Ngoài ra còn có Chương trình Carry up dành cho lao động phi chính quy, Chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chương trình MBA, chương trình hỗ trợ nghề thủ công, hỗ trợ lao động trong ngành y.... được mở trong các trường đại học.

Ngoài ra, các chương trình đào tạo nghề thực tiễn được yêu cầu bởi Bộ trưởng Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi, hoặc những cá nhân được chỉ định tham gia chương trình đào tạo này sẽ được cấp 60% chi phí huấn luyện, đào tạo (mức tối đa là 480.000 yên). Các cơ hội học tập đang mở ra rộng rãi đối với toàn xã hội Nhật Bản.

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

[1]Sách trắng giáo dục năm 2015, Bộ Giáo dục Nhật Bản, tr.216.

[2]Sách trắng giáo dục Nhật Bản, Bộ Giáo dục, 2015, tr.217.

[3]「 第二期教育振興基本計画」

[4]「女性活用プログラム」

Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng Việt

  1. Giáo dục Nhật Bản, Hội thông tin giáo dục Quốc tế. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
  2. Takahashi Hisako, “Tình hình giáo dục trong các trường cấp 2, 3 ở Nhật Bản trong bối cảnh bất ổn”, Hội thảo giáo dục Việt Nam - Nhật Bản lần thứ nhất, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, 2001.
  3. Dương Phú Hiệp, Phạm Hồng Thái (chủ biên), Nhật Bản trên đường cải cách. NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
  4. Nguyễn Duy Dũng: Đào tạo và quản lý nhân lực (Kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc và những gợi ý cho Việt Nam). NXB. Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, 2008.
  5. Ngô Hương Lan, Đề tài cấp Viện “Phương hướng cải cách giáo dục ở Nhật Bản hiện nay”, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, năm 2008.
  6. Ngô Hương Lan, Chuyên đề cấp Bộ “Xu hướng cải cách giáo dục ở Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, đề tài cấp Bộ “Xu hướng cải cách giáo dục của một số nước trên Thế giới”, Viện Thông tin Khoa học xã hội, 2012.

Tài liệu tiếng Nhật

  1. Noda Kouichi, Cải cách cơ cấu giáo dục Nhật Bản. NXB Bensei, Tokyo, 2002. (野田耕一(2002年)『教育構造改革』勉誠出版)
  2. Yada Sadayuki, “Toàn cầu hóa và cải cách giáo dục”, Tạp chí Hiệp hội Anh ngữ Nhật Bản, 2015 (矢田貞行(2015年)「グローバル化と教育改革」、日本英語英文学会)
  3. Shitamura Hirofumi (2013) “Về giải pháp của Bộ Giáo dục Nhật Bản đối với vấn đề Hồi sinh giáo dục”, Hội nghị tư vấn kinh tế tài chính. (下村博文(2013)「教育再生等に関する文部科学省の取り組みについて」『経済財政諮問会議』)
  4. Tokunaga Tamotsu (2015) “Nhân lực toàn cầu hóa là gì?”, Chương trình giáo chức số 5, 104. (徳永保(2015)「グローバル人材とは〔1〕『教職課程』5月号、104.東京:英文と文学、教育の視座).
  5. “Công bố điều tra cơ bản về trường học năm Bình Thành 27” (2015), ngày 25/12/2015, Bộ Giáo dục Nhật Bản. (平成27年度学校基本調査(確定値)の公表について、文部科学省)
  6. “Tài liệu tham khảo Tổng kết hội nghị tư vấn giáo dục trung ương, Phân ban đại học, Bộ phận Giáo dục trên đại học”, năm 2016. (『中央教育審議会大学分科会大学院部会審議まとめ 参考資料』).
  7. “Về sự tồn tại của giáo dục bậc cao  được đòi hỏi trong thời đại toàn cầu hóa”, Khái lược báo cáo của Hội đồng tư vấn giáo dục Trung ương, Phân ban tư vấn giáo dục đại học, Bộ Giáo dục Nhật Bản, năm 2000. (文部省(2000)「グローバル化時代に求められる高等教育の在り方について(審議の概要)」(大学審議会)2016年9月18日検索)、http://www.mext.go.jp/b_menu/shingi/old_chukyo/old_daigaku_index/toushin/1315960.htm
  8. “Hướng tới sự phát triển hơn nữa của giáo dục bậc cao”, Sách trắng giáo dục Nhật Bản năm 2015, Bộ Giáo dục Nhật Bản, 2015 (文部科学白書、「第2部:高等教育の更なる発展について」、文部省2015年).
  9. “Sách trắng giáo dục Nhật Bản” các năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, Bộ Giáo dục Nhật Bản. Website Bộ Giáo dục Nhật Bản (文部科学白書平成22年、23年、24年、25年、26年、27年、文部科学書)、http://www.mext.go.jp/b_menu/hakusho/html/monbu.htm
  10. Liên đoàn kinh tế Nhật Bản, “Ý kiến về việc Sửa đổi yếu lĩnh chỉ đạo học tập”, Tokyo, 2014 (経済同友会(2014年)「学習指導要領改正に向けた意見」東京:公益社団法人経済同友会).
Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn