GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI DÂN SỐ TỚI CƠ CẤU GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN TRƯỚC NĂM 1990

Đăng ngày: 12-02-2020, 03:09

Sự biến động dân số suốt từ thời Minh Trị đến những năm 1990 đã ảnh hưởng lớn đến cấu trúc và chức năng của gia đình Nhật Bản. Sự thay đổi dân số từ mô hình “sinh nhiều tử nhiều” qua giai đoạn “sinh nhiều tử ít”, và sang đến giai đoạn “sinh ít tử ít” đã thể hiện một quá trình thay đổi sự cấu thành của các gia đình Nhật Bản. Song song với đó, sự biến đổi dân số còn đưa đến những thay đổi quy mô hộ gia đình, làm thay đổi cấu trúc gia đình và cuối cùng là làm biến đổi vòng đời của các gia đình Nhật Bản.

- Mô hình từ “sinh nhiều tử nhiều” thay đổi sang mô hình “sinh nhiều tử ít” và ảnh hưởng tới cơ cấu gia đình

Thời Edo, xã hội Nhật Bản là “xã hội nông nghiệp bị chi phối bởi tỉ lệ tử vong cao”. Tức là, trong xã hội ấy, bố mẹ mất sớm nên trước khi mất phải đảm bảo có người thừa kế gia sản và công việc làm nông của gia đình, phụ nữ thời này buộc phải kết hôn sớm và đẻ nhiều. Tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thời kỳ này cao, nên mặc dù đẻ nhiều nhưng bình quân số người con trong một gia đình lại không cao, tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có sự khác nhau khá lớn về số con của các gia đình, phụ thuộc vào gia cảnh của họ. Tuổi thọ trung bình thấp cũng dẫn đến vòng đời của mỗi gia đình ngắn lại, kiểu gia đình trực hệ, đôi vợ chồng cha mẹ sống chung với các đôi vợ chồng con cái, cháu chắt là phổ biến, nhưng trên thực tế thì thời gian sống chung rất ngắn, thậm chí, trong nhiều trường hợp còn chưa kịp sống chung thì cha mẹ đã mất vì bệnh tật. Tuy nhiên, cấu trúc gia đình thời kỳ này là khá đa dạng, trung tâm của gia đình là cặp vợ chồng cha mẹ sống với vợ chồng các con, anh chị em sống chung với nhau, và nhiều gia đình còn có thêm người ngoài đến sống cùng nữa (VD: người giúp việc làm nông, thợ thủ công, thợ học việc trong các gia đình có nghề thủ công truyền thống…).

Từ thời Minh Trị, tỉ lệ tử vong nói chung giảm, số trẻ em tử vong cũng giảm  đi, ở nông thôn, việc kết hôn sớm và đẻ thật nhiều con không còn là vấn đề cần thiết nữa. Nhưng, khi chính phủ Minh Trị thực thi chính sách công nghiệp hóa, cơ hội việc làm mở ra cho phụ nữ chưa lập gia đình tăng lên nhanh chóng, lúc này, nhìn trên tổng thể, tuổi kết hôn của phụ nữ Nhật Bản có xu hướng muộn đi. Điều này càng được củng cố khi thời gian tuyển dụng lao động kéo dài ra, đô thị hóa phát triển thu hút dòng người lao động, bao gồm cả phụ nữ từ nông thôn ra thành phố làm việc, phụ nữ kết hôn muộn trở thành một xu thế trong xã hội thời bấy giờ.

Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, các biện pháp phòng ngừa thai sản vẫn còn kém phát triển hoặc chưa phổ biến, nên khi tỷ lệ tử vong ở trẻ em giảm thì đồng nghĩa với số lượng trẻ em trong mỗi gia đình đều tăng lên. Cùng với đó là tuổi thọ trung bình được kéo dài hơn, nên lúc này các cặp vợ chồng bố mẹ sống cùng với vợ chồng con cái tăng lên. Do đó, con số các thành viên gia đình sống chung với nhau trong một mái nhà cũng tăng lên. Tuy nhiên, lúc này, do số người không phải là thành viên gia đình sống chung để giúp việc lại giảm đi, nên có thể thấy, quy mô gia đình hầu như không có sự thay đổi. Ví dụ, từ năm Đại Chính thứ 9 (1920) đến năm Chiêu Hòa 30 (1955) số thành viên trung bình trong mỗi gia đình Nhật Bản vẫn duy trì ở mức trung bình 5 người.

Mặc dù tập quán cha mẹ sống chung với con cái sau khi con cái kết hôn vẫn còn rất mạnh mẽ, nhưng lúc này số người con trong mỗi gia đình nhiều, nên xu hướng các con thứ đến tuổi trưởng thành phải rời nhà mưu sinh cũng tăng lên, họ ra thành phố làm việc, kết hôn và không trở về quê nhà sinh sống nữa, kéo theo đó là tỉ lệ gia đình hạt nhân (gia đình nhỏ chỉ có cha mẹ sống cùng con cái) tăng từ 54% lên 60% trong giai đoạn 1920-1955.

- Xã hội “Sinh nhiều tử ít” đến “sinh ít tử ít” và vấn đề gia đình

Sau chiến tranh, chỉ trong một thời gian ngắn, có sự bùng nổ tỉ lệ sinh ở Nhật Bản (giai đoạn này được gọi là “baby boomer”), nhưng sau đó con số các cặp vợ chồng sinh trên 4 người con ít dần đi, lúc này các cặp vợ chồng chỉ sinh từ 2-3 người con chiếm tới khoảng 80%. Do tỉ lệ sinh giảm nhanh chóng, nên quy mô gia đình Nhật Bản từ những năm 1955 cũng bị thu hẹp nhanh chóng. Nếu như năm 1955, quy mô gia đình ở Nhật Bản vẫn còn khá lớn, mỗi gia đình có số thành viên trung bình là 5 người, thì đến những năm 1965 đã giảm xuống còn 4 người, những năm 1985 còn gần 3 người.

Nếu chỉ có tỉ lệ sinh giảm thì cũng không thể làm quy mô gia đình Nhật Bản giảm một cách đột ngột như vậy. Nguyên nhân này còn nằm ở việc: con số những người không phải họ hàng thân thích nhưng lại sống chung với gia đình cũng giảm liên tục trong một thời gian dài ngay từ giai đoạn trước Chiến tranh Thế giới thứ hai đến sau đó, cộng với số anh chị em trong gia đình giảm, tỉ lệ các gia đình có anh chị em ruột lập gia đình rồi sống cùng nhau trong một mái nhà giảm thấp. Bên cạnh đó, từ năm 1955 đến 1965, Nhật Bản bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao độ, thế hệ ra đời trong giai đoạn “sinh nhiều tử ít” nay đã bước vào tuổi thanh niên, xu hướng đi học thêm, học xa nhà, ở trong ký túc xá hoặc các nhà trọ tăng lên, hình thành kiểu “hộ gia đình một người”, và kiểu gia đình này tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong vài thập kỷ sau đó. Rồi những thanh niên này kết hôn, tạo nên kiểu “gia đình hạt nhân”, chỉ có bố mẹ sống cùng con, chứ không sống chung nhiều thế hệ, con số “hộ gia đình hạt nhân” như vậy đã tăng lên nhanh chóng và đạt 64% trên tổng số hộ gia đình ở Nhật Bản vào năm 1975. Ngay sau chiến tranh, có một thời kỳ không chỉ những người con trai thứ mới rời khỏi nhà ra thành phố lập nghiệp, mà thậm chí con trai cả cũng rời xa bố mẹ, tạo lập cuộc sống riêng. Tỉ lệ cặp vợ chồng bố mẹ sống chung với cặp vợ chồng con cái ở Nhật Bản dần dần giảm. Có thể lấy ví dụ, vào những năm 1945 có khoảng 60% các cặp vợ chồng bố mẹ sống chung với vợ chồng con cái, nhưng tới năm 1975 thì tỉ lệ này giảm một nửa, chỉ còn 30%. Tỉ lệ sống chung với bố mẹ già (trên 65 tuổi) mà chủ yếu là vợ chồng con trai trưởng cũng giảm từ 80% vào những năm 1955 còn khoảng gần 60% vào những năm 1985. Song song với đó, tỉ lệ các hộ gia đình chỉ có một cặp vợ chồng già sống với nhau, và tỉ lệ các hộ gia đình đơn thân (gia đình 1 người) tăng lên. Tất cả những điều này đều là nguyên nhân làm thu hẹp quy mô gia đình và đơn giản hóa các thành phần trong mỗi gia đình ở Nhật Bản.

Bước vào thập niên 1970, lớp trẻ em sinh vào thời kỳ “sinh ít tử ít” nay đã bước vào giai đoạn thành niên, trở thành trụ cột - những người có vận mệnh nắm giữ sự hình thành của các gia đình ở Nhật Bản. Trong gia đình có con cái sinh trưởng trong thời kỳ “sinh ít tử ít” thì bình quân số anh chị em, kể cả họ chỉ dừng lại ở con số trên 2 người. Sự thay đổi này diễn ra trong một xã hội có tập quán gia đình trực hệ như Nhật Bản (ông bà sống chung với bố mẹ và con cái), tất nhiên ít nhiều có ảnh hưởng đến lối sống của các gia đình. Tuy nhiên, vào năm 1975, tỉ lệ các cặp vợ chồng mới kết hôn sống cùng cha mẹ không giảm, được cho là do sự di dân từ nông thôn ra thành thị có chiều hướng chững lại. Ngoài ra, tỉ lệ gia đình hạt nhân trên tổng số các gia đình ở Nhật Bản có chiều hướng giảm cũng do cùng nguyên nhân này.

Mặt khác, xem xét lại thời kỳ cuối thập niên 1960, chúng ta có thể thấy xu hướng già hóa dân số tăng mạnh ở Nhật Bản, nên các hộ gia đình có người già tăng lên, đặc biệt, theo thống kê năm 1985, con số các hộ gia đình chỉ có cặp vợ chồng già sinh sống và con số các hộ gia đình đơn thân đã lần lượt chiếm 7,3% tổng số hộ gia đình ở Nhật Bản. Nhìn lại dự báo được công bố tháng 10/1987 của Viện Nghiên cứu dân số, Bộ Y tế Nhật Bản, báo cáo này cho rằng cùng với tốc độ già hóa nhanh, con số hộ gia đình người cao tuổi (trên 65 tuổi) sẽ tăng lên chiếm 16,8% tổng số hộ gia đình ở Nhật Bản vào năm 2025, nhưng trên thực tế con số này đã lớn hơn rất nhiều so với dự báo cách đây 3 thập kỷ. Năm 2015, số người già ở Nhật Bản đã đạt trên 27% tổng dân số, trong khi số các hộ gia đình chỉ có cặp vợ chồng già sống với nhau tăng lên đến gần 20%, cho thấy tốc độ già hóa dân số vô cùng nhanh ở Nhật Bản.

Vậy thì, việc kết hôn muộn, sinh ít con, tuổi thọ trung bình được kéo dài… đã làm thay đổi vòng đời và lối sống của các gia đình Nhật Bản như thế nào? Có thể thấy việc kết hôn muộn trước hết làm chậm thời điểm xuất phát của sự hình thành gia đình ở Nhật Bản. Xu hướng sinh ít con và sinh con ngay sau khi kết hôn khiến cho khoảng cách trung bình giữa các thế hệ ngắn lại, thời gian sinh đẻ và nuôi con của người phụ nữ cũng ngắn lại, nhưng mặt khác, lúc này tỉ lệ trẻ em học lên cấp 3 và đại học lại tăng cao, dẫn đến thời gian chăm sóc con không có sự thay đổi lớn. Do tuổi thọ trung bình của người dân Nhật Bản tăng lên nhiều, nên khoảng thời gian nhàn rỗi khi về già lại được kéo dài ra, tình trạng gia đình có 1 trong hai vợ chồng mất sớm cũng ít đi, phần lớn các cặp vợ chồng có thể an hưởng tuổi già cùng nhau trong thời gian khá dài.

Tuổi thọ trung bình cao cũng làm tăng thời gian sống chung giữa bố mẹ và con cái, bên cạnh đó, tỉ lệ sinh giảm lại tạo ra các gia đình ít anh chị em, khiến cho mối quan hệ chiều ngang trong gia đình bị thu hẹp, trong khi quan hệ chiều dọc được mở rộng hơn. Mặc dù không sống chung, nhưng sự liên hệ giữa các thành viên trong gia đình 3 thế hệ, thậm chí 4 thế hệ cũng tăng lên./.

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Tài liệu tham khảo

*Tiếng Việt

1. Hashimoto Kazutaka, “Nguyên nhân và tác động của tình trạng giảm thiểu trẻ em tại Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 7/2018

2. Shimane Katsumi ““Xã hội vô cảm” và giai đoạn cuối đời trong thời đại ít trẻ em – già hóa dân số ở Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 3/2014

3. Ngô Hương Lan, “Một số vấn đề xã hội Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 8/2013

4. Nguyễn Thị Hồng Vân, “Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội ở Nhật Bản trong những năm gần đây”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 11/2015

5. Phan Cao Nhật Anh, “Điều tra dân số và gia đình Nhật Bản”, website Nghiên cứu Nhật Bản: http://cjs.inas.gov.vn/index.php?newsid=1254 truy cập ngày 11.2.2020.

*Tiếng Nhật

6. 『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年 (Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988)

7.『家族と地域社会』川越淳二、1990年、名著出版 (Wakagoe Junji (1990), Gia đình và cộng đồng địa phương, NXB.Meicho)

8.『家族と地域社会』川越淳二、名著出版、1990年 (Kawagoe Junji (1990), Gia đình và xã hội địa phương, NXB.Meicho, 1990)

9. 『家族と人口の歴史社会学』斎藤修、リブロポート、1988年 (Saito Osamu, Xã hội học lịch sử về gia đình và dân số, NXB Libro, 1988)

10. 『人口減少社会、未来への責任と選択』厚生省大臣官房政策課編、ぎょうせい出版社、1998年 (Xã hội suy giảm dân số, trách nhiệm và sự lựa chọn tương lai, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1998)

 

 

 

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn