GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

NÔNG THÔN VÀ GIA ĐÌNH NHẬT BẢN TRƯỚC VÀ SAU CHIẾN TRANH

Đăng ngày: 20-03-2020, 11:18

1. Thời đại “Đánh mất gia đình và quê hương”

Vào những năm 1980, người Nhật bắt đầu quen với cụm từ “Đánh mất gia hương”. Lúc này, gia đình và cộng đồng địa phương đã thay đổi nhanh chóng. Kiểu gia đình truyền thống (theo chế độ “Ie”) biến mất, cộng đồng nông thôn truyền thống cũng có những thay đổi sâu sắc, Kiểu gia đình mới - gia đình hạt nhân ra đời, cộng đồng mới không kết cấu từ các dòng tộc, mà theo quan hệ chiều ngang - quan hệ xóm giềng phát triển. Để làm rõ các đặc điểm của xã hội Nhật Bản hiện đại, trước hết cần làm sáng tỏ gia đình và cộng đồng nông thôn thời kỳ trước và sau chiến tranh.

Xã hội Nhật Bản trước chiến tranh cơ bản là một xã hội nông nghiệp, có cấu trúc được tạo nên từ “nhà” (gia đình) và “làng” (làng xã). Đối với phần lớn người dân nông thôn thì nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là “gia kế” của họ, và người nối nghiệp gia đình phải là con trai trưởng. Chế độ “Ie” (Nhà) là chế độ phù hợp một cách tuyệt đối với những gia đình làm nghề nông và tiểu thủ công nghiệp. Chế độ  này so với kiểu chia đều tài sản cho các con trai ở Trung Quốc, hay chế độ phân chia bình đẳng cho tất cả các con ở các nước Âu Mỹ, được xem là ổn định hơn, do chắc chắn sẽ có một người con kế thừa gia sản và chịu trách nhiệm chăm sóc cha mẹ khi về già. Nhìn từ khía cạnh khác, trong chế độ “gia đình hạt nhân” như ở các nước Âu Mỹ, cha mẹ có trách nhiệm nuôi con cái khôn lớn, nhưng con cái không nhất thiết phải phụng dưỡng cha mẹ, kiểu gia đình này gọi là “kiểu relay” (tiếp nối). Điều này khác với gia đình trực hệ (sống chung nhiều thế hệ) ở Nhật Bản, là “kiểu feedback” (phản hồi), bố mẹ nuôi dưỡng con cái cho đến tuổi trưởng thành, và con cái có nghĩa vụ chăm sóc bố mẹ khi về già.

Như vậy, xã hội Nhật Bản trước chiến tranh được hình thành từ những đơn vị cơ bản - “Nhà” (Ie), cùng với đó là các cộng đồng “làng” và “phố”. Nếu như  gia đình của người lao động ở thành phố vốn chỉ có chức năng tiêu dùng và nuôi dạy con cái, thì gia đình ở nông thôn còn có thêm chức năng sản xuất và sinh hoạt, nó có cơ cấu và chức năng phức tạp hơn các gia đình ở thành phố. Ở nông thôn xưa kia, mỗi người dân còn là thành viên của cộng đồng với chế độ chủ đất và các giai tầng trong chế độ này, họ sinh sống trong cái hệ thống đóng khung với những chế định và quy phạm riêng của nó. Nhưng mặt khác, sự kết hợp mang tính cộng đồng này lại có khả năng bảo vệ và nâng đỡ cuộc sống của mỗi người. “Hội phố” đương thời tại các thành phố cũng là một hệ thống có sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau, và xét trên phương diện đó, nó có chức năng giống như “làng”.

Sau chiến tranh, cùng với sự thay đổi nhanh chóng do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa mang lại, nền tảng của cộng đồng truyền thống ở nông thôn sụp đổ, ý thức về quyền lợi của mỗi cá nhân trong từng người dân cao lên, nhưng ý thức liên kết xã hội (ý thức tập thể) lại giảm xuống. Vào những thập niên 1980,1990, tương trợ mang tính xã hội (tính cộng đồng) vốn được tạo nên bởi “Nhà” (ie) và “Làng” (mura) dần dần suy yếu, đặc biệt ở những địa phương có dân số giảm mạnh, ngay cả nền tảng của cộng đồng địa phương cũng bị lung lay. Nhìn từ hệ thống phúc lợi địa phương, có thể thấy, trước chiến tranh, tuy các gia đình, làng xã đều nghèo về vật chất, nhưng họ cùng nhau khắc phục sự nghèo khó, và cộng đồng có chức năng đảm bảo cho cư dân có cuộc sống an yên lúc tuổi già, nhưng sau chiến tranh, cộng đồng địa phương đã mất đi chức năng vốn có của nó, tính ổn định cũng biến mất. Chính vì vậy mà hiện nay Nhật Bản đang đối mặt với vấn đề phải làm thế nào để phục hồi cộng đồng địa phương truyền thống, hay nói cách khác, “tạo ra quê hương mới”.

2. Sự thay đổi quan niệm về “Nhà” (ie) và chế độ “trưởng nam thừa kế”

Có thể tóm tắt những đặc điểm của “Nhà” (ie) và gia đình Nhật Bản trước Chiến tranh Thế giới thứ hai như sau:

1- “Nhà” (ie) - là nơi từ tổ tiên đến đời con, cháu sinh sống, tính liên tục của nó được nối truyền từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. “Nhà” được kế thừa trực hệ, nên “Nhà” quan trọng hơn là mỗi cá nhân thành viên trong nhà. Do đó, dòng tông, cốt cách, tên tuổi và nền nếp, gia phong của một gia đình rất được coi trọng.

2- Người con trai trưởng được thừa kế “Nhà” nên địa vị và tiếng nói của anh ta cao hơn các thành viên khác, quyền lực cũng đi liền với đó. Trưởng nhà (Người chủ gia đình) có quyền quyết định đối với gia sản, do đó có quyền lực chi phối các thành viên khác trong gia đình.

3- Người kế thừa “Nhà” (ie) ở đây có nghĩa là được thừa kế gia sản, con trai trưởng sẽ là người thừa kế, hoặc là người được ưu tiên thừa kế.

4- Mối quan hệ cha-con được ưu tiên hơn quan hệ vợ-chồng.

5- Hôn nhân là sự kết hợp của gia đình với gia đình, vì thế gia cảnh được coi trọng hơn là năng lực và tính cách của cá nhân.

6- “Nhà” phản ánh trật tự anh-em trong thừa kế, nếu gia sản được phân chia ra, ví dụ chia nhà đất thì “nhà thứ” (phân gia) được quyết định dựa trên mối quan hệ giữa những người anh em, và “nhà thứ” (phân gia) không bao giờ có được vị trí bình đẳng với “nhà trưởng” (bản gia). Nhà thứ, hoặc nhà chia (nhà ở của con trai thứ), xét về địa vị kinh tế và tiếng nói trong gia đình đều thấp hơn nhà chính (nhà của con trai trưởng).

7- Gia tộc (bao gồm những người có quan hệ họ hàng) là tập thể gia đình, trong đó việc thờ cúng tổ tiên và các vị thần bảo hộ của ngôi nhà được ủy thác cho người con trai trưởng, đó là một đặc điểm quan trọng trong truyền thống gia đình ở Nhật Bản. Sức liên kết của mối quan hệ họ hàng, trải qua quan hệ hôn nhân nhiều đời đã bị phai nhạt dần, và cuối cùng nó cũng chỉ còn là mối quan hệ gần gũi của những người sống gần nhau (xóm giềng) mà thôi. Tuy vậy, không phải tất cả các gia đình Nhật Bản trước chiến tranh đều có chung đặc điểm này, nói cách khác, mỗi địa phương có đặc điểm khác nhau, ví dụ như sự kết hợp đồng tộc kiểu Đông Bắc khác với sự kết hợp kiểu Tây Nam.

Đến đây, một câu hỏi đặt ra là: “Vậy thì, sau 40 năm Luật Dân sự sửa đổi được ban hành thì “Nhà” (ie) và gia đình đã có những biến đổi như thế nào?”.

Chế độ gia đình trực hệ với ý thức về “gia cách” (cốt cách, gia phong của gia đình) ngày càng suy yếu, quyền lực của người con trai trưởng giảm sút tương đối, lúc này, ý thức ưu tiên con trai hơn con gái, hay coi mối quan hệ cha-con là quan hệ chính, xuyên suốt và có tính quyết định đối với mọi vấn đề của gia đình cũng mất dần. Thay vào đó, phong trào bình đẳng giới lan rộng, ý thức gia đình cũng chuyển từ kiểu gia đình trực hệ (sống chung nhiều thế hệ) sang gia đình vợ - chồng (gia đình hạt nhân), chỉ có một đôi vợ chồng sống với con cái của họ. Đặc biệt là ở thành phố, nơi mà vấn đề nhà cửa gặp nhiều khó khăn, thì kiểu “gia đình hạt nhân” đã trở nên phổ biến. Có thể nói, chế độ gia đình trước chiến tranh đã hoàn toàn sụp đổ, thay vào đó là chế độ gia đình kiểu mới - “gia đình hạt nhân”.

Tuy nhiên, việc kế thừa “Nhà” (Ie) của tổ tiên và chịu trách nhiệm thờ cúng ở nông thôn vẫn rất được coi trọng. Nếu người con trai trưởng không đảm đương được công việc này thì một trong những người con còn lại sẽ gánh vác nó, nên có thể nói, “Nhà” vẫn có một ý nghĩa quan trọng nhất định trong ý thức mỗi người dân. Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu dân số Nhật Bản, sự biến đổi của gia đình và nông thôn ở Nhật Bản sau chiến tranh có hai hình thức cơ bản, đó là kiểu của các địa phương vùng Đông Bắc và kiểu của các địa phương Tây Nam. Viện Nghiên cứu dân số Nhật Bản và Phủ Nội Các đã tiến hành các cuộc điều tra vào năm 1953, 1968, 1985 tại tỉnh Akita, thị trấn Aikawa, làng (địa khu) Kamikoani - một địa phương điển hình của vùng Đông Bắc Nhật Bản, và tại tỉnh Okayama, thị trấn Agarimichi, làng (địa khu)  Ukita trong suốt 30 năm để tìm hiểu cụ thể về quá trình thay đổi của cộng đồng nông thôn truyền thống ở Nhật Bản. Sơ lược kết quả điều tra như sau:

Bảng 1 thể hiện kết quả điều tra tìm hiểu về thái độ và suy nghĩ đối với việc con trai trưởng được thừa kế gia sản, câu hỏi được đưa ra là: “Từ xưa tới nay, ở nông thôn, con trai trưởng là người chịu trách nhiệm cúng giỗ tổ tiên, và cũng là người được thừa kế tài sản, đó là truyền thống. Bạn suy nghĩ thế nào về điều này?”.

Việc con trai trưởng thừa tự là biểu tượng của chế độ “Ie”, năm 1954 ở tỉnh Akita có khoảng 81%, tỉnh Okayama có 58% trả lời khẳng định đối với câu hỏi trên, tức là công nhận chế độ “Ie”. Đặc biệt, trong số những câu trả lời khẳng định, ở Akita có tới 62% người trả lời cho rằng chế độ này là “tích cực”, còn ở Okayama, con số này chỉ có 33%, thể hiện sự khác nhau ở mỗi địa phương trong quan niệm về vấn đề thừa kế và vai trò của trưởng nam trong gia đình.

Bảng 1: Sự thay đổi trong quan điểm “Con trai trưởng thừa kế gia sản”

ở tỉnh Akita và tỉnh Okayama

(Đơn vị:%)

NÔNG THÔN VÀ GIA ĐÌNH NHẬT BẢN TRƯỚC VÀ SAU CHIẾN TRANH

Chú thích: Số liệu điều tra năm 1953 và 1968 dựa theo “Báo cáo phân tích sự biến đổi trong ý thức của người dân nông thôn và xã hội nông thôn trong 15 năm” (Phủ Nội Các), số liệu điều tra năm 1985 trích từ “Nghiên cứu xã hội học về biến đổi cơ cấu gia đình và cơ cấu nông thôn” của tác giả Takahashi Akiyoshi và các cộng sự.

Nguồn: 『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年 (Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988, tr.132)

Nhìn bảng trên, có thể thấy, đến năm 1965, ngay cả ở Akita, quan niệm con trai trưởng được thừa kế toàn bộ gia sản cũng thay đổi theo chiều hướng giảm mạnh. Kết quả cho thấy dù có nhiều người cho rằng con cả nên kế thừa gia sản, nhưng câu trả lời “ai đó trong số các con kế thừa cũng được” đã tăng lên. Kết quả điều tra năm 1985 cho thấy, số người có câu trả lời khẳng định chỉ còn trên dưới 28%, nhưng số người cho rằng “một trong những người con có thể kế thừa gia sản” đã tăng lên 39%. Còn ở Okayama, ngay từ năm 1968, số người đồng ý rằng “một trong những người con thừa kế cũng được” đã chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các câu trả lời, và cho đến năm 1985, con số này không thay đổi đáng kể.

Điều đáng chú ý là, quan điểm về việc chia đều tài sản ở cả hai vùng từ năm 1968 đến 1985 đều giảm mạnh, nhưng ngược lại, niềm hy vọng “một trong số những người con kế thừa toàn bộ gia sản và chăm sóc việc nhà” lại tăng lên. Về quan điểm con trai trưởng được thừa kế, từ năm 1953 đến 1968 có sự giảm đáng kể, từ năm 1968 đến 1985 không thay đổi nhiều, có thể thấy lúc này đã bước vào thời kỳ tương đối ổn định - với một trong những người con kế thừa gia sản và chăm sóc bố mẹ già.

Ai trong số những người con sẽ kế thừa gia sản? Tất nhiên, lúc này khuynh hướng “ưu tiên con trai hơn con gái” vẫn chiếm đa số trong các ý kiến, nhưng ý kiến cho rằng “con nào kế thừa cũng tốt” cũng chiếm tới trên 50%, chứng tỏ lúc này quan niệm truyền thống về việc kế thừa gia sản đã có thay đổi lớn, họ cho rằng, không nhất thiết con trai trưởng phải là người kế thừa gia sản và chăm sóc việc thờ cúng tổ tiên. Đối với những người con không kế thừa gia sản, nhiều ý kiến cho rằng “các con trai sẽ chăm sóc việc đất đai, nhà cửa”, còn “con gái thì phụ giúp các công việc khác”, có ít ý kiến cho rằng “nên chia đều gia sản”, nhưng lúc này đã không còn sự phân biệt con trai hay con gái kế thừa nữa.

Còn một điểm khác nhau quan trọng giữa 2 địa phương vùng Đông Bắc và Tây Nam đã nêu trên ở chỗ, ở Akita, 87% số người được hỏi cho rằng nên giữ quan hệ tốt giữa “bản gia” (nhà chính - của con trai trưởng) và “thứ gia” (nhà chia - của các con trai thứ) (『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年 (Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988, tr.134), có rất ít ý kiến phản bác điều đó, trong khi ở Okayama nhiều ý kiến lại cho rằng “thà duy trì quan hệ tốt với hàng xóm láng giềng còn hơn”, chứng tỏ mối quan hệ anh em trong gia đình lớn đã nhạt dần ở các địa phương vùng Tây Nam Nhật Bản.

Ngô Hương Lan

Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Tài liệu tham khảo chính:

1. Kobayashi Yoshihiro “Đặc trưng tính chất cộng đồng của xã hội Nhật Bản và đánh giá”, Nghiên cứu kinh tế học 61-4, Đại học Hokkaido 3/2012 (小林好宏、「日本社会の共同体的特質とその評価」、『経済学研究』61-4、北海道大学2012.3)

2. Yamaguchi Kenichi “Các vấn đề luận bàn của chủ thể lịch sử – Nghiên cứu chính trị văn hóa khu vực công”, Doanh nghiệp thành phố số 11 (2019), tr.101-117 (山口健一「歴史主体論争が示す問題圏―公共圏の歴史文化研究に向けて―」『都市経営』No.11(2019)pp.101-117)

3. Kawagoe Junji (1990), Gia đình và xã hội địa phương, NXB.Meicho, 1990  (川越淳二、『家族と地域社会』、名著出版、1990年)

4. Iwamoto Yoshiteru, Kunikata Keiji (đồng chủ biên), Gia đình và cộng đồng: Từ quan điểm đối chiếu Nhật – Âu, NXB Đại học Hosei, 1997 (岩本由輝、國方敬司、『家と共同体:日欧比較視点から』、法政大学出版局、1997年)

5. Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988 (『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年)

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn