GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

GIA ĐÌNH HẠT NHÂN VÀ VẤN ĐỀ CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ Ở NHẬT BẢN NHỮNG NĂM TRƯỚC 1990 (phần 1)

Đăng ngày: 2-09-2020, 09:19

1. Gia đình hạt nhân

Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, chế độ “Ie” với nền tảng cơ bản là gia đình sống chung nhiều thế hệ (vợ chồng con trai trưởng sau khi kết hôn sẽ sống chung với bố mẹ chồng, chăm sóc bố mẹ lúc tuổi già) bắt rễ sâu sắc trong đời sống xã hội Nhật Bản. Nếu người con trai trưởng rời khỏi gia đình đi lập nghiệp ở nơi khác, hay gia đình không có con trai, thì những người con khác sẽ có trách nhiệm thay thế công việc đó. Chức năng phụng dưỡng bố mẹ già (người cao tuổi) được duy trì bởi gia đình, và trên cơ sở cùng chung sống nhiều thế hệ. Cha mẹ đảm bảo cho con cái một công việc ổn định, cho con thừa kế gia sản, và ngược lại, có quyền kỳ vọng con cái phụng dưỡng về mọi mặt lúc tuổi già, từ vấn đề kinh tế đến chăm sóc sức khỏe thể chất, tinh thần. Sau Chiến tranh, Luật dân sự mới được ban hành, dựa trên nền tảng cơ bản là chế độ gia đình vợ - chồng, nhưng trên thực tế, tập quán gia đình con trai sống chung với bố mẹ lúc về già vẫn còn rất mạnh mẽ.

Vào những năm 1960, tỉ lệ con cái sống chung với bố mẹ già (trên 65 tuổi) để phụng dưỡng bố mẹ là 87,4%, nhưng sau đó, tỉ lệ này dần dần giảm xuống, đến năm 1985 vẫn còn khoảng trên dưới 60%. Theo thống kê của Ủy ban điều tra các vấn đề dân số, Viện Nghiên cứu dân số, Bộ Y tế và Phúc lợi Nhật Bản, năm 1985, trong số các gia đình có con cái sống chung để phụng dưỡng bố mẹ già, có 60% là gia đình con trai trưởng, 20% là gia đình anh chị em ruột, 20% còn lại là con cái chưa kết hôn sống chung với bố mẹ. Ngoài ra, trong các gia đình sống riêng, có tới 60% là gia đình hạt nhân (chỉ có đôi vợ chồng già), 30% là hộ gia đình một người, còn lại trên 10% là các cụ già sống trong viện dưỡng lão hoặc các cơ sở chăm sóc sức khỏe khác.

Lý giải về sự biến đổi của tập quán sống chung nhiều thế hệ trong một gia đình ở Nhật Bản, có thể thấy có nhiều nguyên nhân khác nhau. So sánh tỉ lệ này ở nông thôn và thành phố, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai tỉ lệ gia đình sống chung nhiều thế hệ ở thành phố đã giảm mạnh so với khu vực nông thôn. Nói cách khác, tập quán gia đình sống chung nhiều thế hệ đã suy yếu ở khu vực thành phố. Điều này là do trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng cao, đô thị hóa dân số phát triển nhanh chóng. Cơ cấu các ngành sản xuất thay đổi, các doanh nghiệp sản xuất mở rộng quy mô, trong khi đó số người thuộc tầng lớp kinh doanh nhỏ giảm xuống, “lao động cổ trắng” làm việc trong các công ty, tập đoàn lớn tăng lên. Cũng giống như nông thôn, ở khu vực thành thị, việc kế thừa các công việc truyền thống của gia đình giảm đi, những người làm công ăn lương phải di chuyển quãng đường rất xa từ nơi ở đến nơi làm việc. Rất khó có thể chọn được những khu vực có điều kiện nhà đất rộng rãi để có thể sống chung nhiều thế hệ như trước đây. Vấn đề nhà đất chật hẹp ở thành phố đã trở thành một trong những nguyên nhân làm thay đổi tập quán sinh sống nhiều thế hệ trong cùng một mái nhà ở Nhật Bản.

Tuy nhiên, tỉ lệ gia đình sống chung nhiều thế hệ cũng giảm ngay cả ở khu vực nông thôn. Xem xét nguyên nhân của vấn đề này, có thể thấy, trong thời kỳ kinh tế phát triển cao độ, thế hệ trẻ rời xa bố mẹ ở quê nhà, chuyển ra sống ở thành phố để học tập, tìm kiếm cơ hội việc làm, rồi họ kết hôn và xây dựng gia đình riêng của mình ở đây. Mặc dù thế hệ trẻ những năm 1960-1970 ở Nhật Bản vẫn còn có nhiều anh chị em trong một gia đình, song không chỉ những người con thứ rời gia đình, mà ngay cả người con trai trưởng cũng rời nông thôn ra thành phố tìm kiếm cơ hội việc làm và cuộc sống mới, chính vì thế mà tỉ lệ con cái sống chung với bố mẹ giảm mạnh ở cả khu vực nông thôn.

Vào năm 1985, tỉ lệ người già trên 65 tuổi sống trong hộ các gia đình hạt nhân và hộ gia đình đơn thân ở các vùng miền có sự khác nhau, tỉ lệ này thấp ở những khu vực phi đô thị, nhưng cao ở ba thành phố lớn như Tokyo, Osaka, Nagoya. Xem xét khu vực phi đô thị, vùng Đông Bắc và vùng núi phía Bắc có tỉ lệ gia đình hạt nhân thấp, trong khi các địa phương như Hokaido, Kyushu, Chukoku, Shikoku lại cao. Sự khác nhau này khó có thể đổ lỗi cho đô thị hóa, hoặc tỉ lệ di dân trong quá khứ, vì vậy, có thể nghĩ đến một lý do khác, đó là sự khác nhau ở các địa phương này xuất phát từ tập quán truyền thống, lối sống và suy nghĩ khác nhau của vùng Đông Bắc và Tây Nam Nhật Bản.

Ngoài những nguyên nhân về mặt kinh tế như đã phân tích ở phần trên, còn có những nguyên nhân nảy sinh từ sự thay đổi ý thức về tập quán sống chung nhiều thế hệ. Những năm trước chiến tranh đến năm 1955 chưa có số liệu điều tra về ý thức gia đình sống chung nhiều thế hệ ở Nhật Bản, nhưng dựa trên con số gần 90% người già sống cùng con cháu, có thể thấy rằng vào thời điểm đó, ý thức và tập quán sống chung nhiều thế hệ dưới một mái nhà ở Nhật Bản vẫn còn rất mạnh mẽ.

Xem xét 10 năm từ 1975-1985, có thể thấy sự biến đổi trong ý thức của thế hệ cha mẹ (60 tuổi) và con cái (30-40 tuổi) với xu hướng giảm trong suy nghĩ “Nên sống chung, ngay cả khi bố mẹ còn khỏe” ở cả 2 thế hệ, số người cho rằng “nên sống riêng” tăng lên. Tuy nhiên, trong trường hợp bố mẹ già chỉ còn lại một trong hai người, thì ở cả thế hệ cha mẹ lẫn thế hệ con cái đều có tới hơn 80% số người cho rằng “nên sống chung”.

Như vậy, sự chuyển biến từ mô hình gia đình trực hệ (sống chung nhiều thế hệ) sang kiểu gia đình hạt nhân (chỉ có bố mẹ và con) diễn ra từ từ trong những năm sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến hết thập niên 1980. Mặc dù, về căn bản, ý thức sống chung để phụng dưỡng bố mẹ già vẫn còn khá mạnh mẽ, nhưng dưới những tác động của đô thị hóa dân số và sự thay đổi cơ cấu kinh tế, sự thay đổi trong ý thức người dân cũng bắt đầu manh nha, và tỉ lệ gia đình hạt nhân đã tăng lên chiếm tới 40% trên tổng số hộ gia đình ở Nhật Bản vào những năm 1985.

2. Vấn đề chăm sóc người già

Như đã trình bày ở phần trên, tập quán người già sống cùng với con cái đã dần dần suy yếu ở Nhật Bản. Tuy nhiên, ý thức phụng dưỡng cha mẹ già không có nhiều thay đổi. Khi cha mẹ còn khỏe có thể sống riêng, con trưởng lập gia đình cũng không cần sống chung, nhưng khuynh hướng chuyển về sống chung khi cha mẹ đã già yếu đang tăng lên. Bên cạnh sự thay đổi về ý thức, thì “xã hội lao động cổ cồn” cũng khó cho phép người làm công ăn lương có thể cùng lúc vừa đi làm, vừa chăm sóc bố mẹ già. Việc duy trì mô hình “tam đại đồng đường”, chung sống nhiều thế hệ trong cùng một ngôi nhà là rất khó. Vậy thì gia đình đóng vai trò như thế nào trong việc chăm sóc người già về mặt kinh tế, thể chất và tinh thần?

Sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, xu hướng nhờ cậy hoàn toàn vào con cái lúc tuổi già đã dần suy yếu. Theo kết quả của cuộc điều tra về tình hình quốc gia được chính phủ Nhật Bản tiến hành 2 năm một lần với đối tượng là phụ nữ dưới 50 tuổi đã có gia đình, với câu hỏi “Bạn nghĩ việc chăm sóc cha mẹ lúc về già” là “tập quán tốt” hay đó là “việc đương nhiên phải làm”, cả 2 câu trả lời đều chiếm tới trên 70%, cho thấy không có sự thay đổi lớn so với các thời kỳ trước. Tuy nhiên, đối với câu hỏi “Về già bạn có định nhờ cậy con cái không?”, câu trả lời “Có ý định nhờ cậy con cái” và “Sẽ nhờ cậy nếu có thể” đã giảm từ 50% vào năm 1955 xuống còn khoảng 20% những năm giữa thập niên 1970 (Xem thêm『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年).

Theo kết quả điều tra của Cục Nội vụ về “Thực trạng người già đang nhận trợ cấp từ con cái” vào năm 1975, trong số các cụ già từ 60-74 tuổi, có dưới 50% nhận trợ cấp tiền bạc từ con. Xem xét trường hợp sống chung và sống riêng, trong trường hợp sống chung với con, trên 50% người già nhận trợ cấp từ con, nhưng trong trường hợp không sống chung, chỉ có chưa đầy 30% người già được nhận trợ cấp kinh tế từ các con. Xét về các khoản trợ cấp, có hơn 60% người già nhận được trợ cấp toàn phần từ con cái, 40% còn lại chỉ nhận được trợ cấp sinh hoạt phí hoặc các khoản nhỏ khác. Điều này cho thấy việc phụng dưỡng về mặt kinh tế cho người già  giảm, một phần do chế độ lương hưu lúc này được đảm bảo, ổn định, nhưng mặt khác là do sự giảm tỉ lệ sống chung với gia đình con cái.

Còn theo kết quả của cuộc “Điều tra so sánh quốc tế về nguồn thu nhập của người cao tuổi (trên 60 tuổi)” do Cục Nội vụ tiến hành năm 1987, ở Anh, Mỹ, thu nhập của người già chủ yếu dựa vào tiền lương của hệ thống công, sau đó đến nguồn tiền lương tư nhân và tiền thu được từ công việc làm thêm, thu nhập từ tài sản… Ngược lại, tại các nước như Hàn Quốc, Thái Lan, người già chủ yếu vẫn nhận hỗ trợ từ con cái, sau đó mới đến thu nhập từ công việc. Nhật Bản đứng ở vị trí giữa với tỉ lệ thu nhập từ nguồn lương và làm thêm mỗi nguồn vào khoảng 1/3 tổng thu nhập, tiếp đến là nguồn thu nhập từ con cái hỗ trợ.

Bảng 1: So sánh nguồn thu nhập của người già ở một số quốc gia (đơn vị:%)

GIA ĐÌNH HẠT NHÂN VÀ VẤN ĐỀ CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ  Ở NHẬT BẢN NHỮNG NĂM TRƯỚC 1990 (phần 1)

Nguồn: “Điều tra so sánh quốc tế về cuộc sống và suy nghĩ của người già” (năm 1981 và 1986) Phòng Chính sách người già, Cục Nội vụ.

* Đối tượng điều tra là người già trên 60 tuổi tại các nước

* Cuộc điều tra ở Hàn Quốc và Anh được tiến hành năm 1986.

Ở Nhật Bản, trước kia, giống như các nước đang phát triển, khi còn có thể lao động được thì người già sống dựa vào thu nhập từ công việc đang làm là chính, còn khi không còn khả năng lao động thì sẽ dựa vào con cái, đây là cách suy nghĩ điển hình. Nhưng từ những năm 1970, do hệ thống lương hưu và phúc lợi xã hội phát triển, xã hội đã thay thế gia đình trong việc “phụng dưỡng” người già về mặt kinh tế. Gánh nặng này sẽ tăng lên khi Nhật Bản bước vào xã hội già hóa cao độ.

Năm 1986, Sở Nội vụ tiến hành cuộc điều tra so sánh quốc tế đối với người già ở cả hai giới trong độ tuổi trên 60 tuổi về chi phí sinh hoạt và mức độ tự lực về tài chính (trong khi còn có thể lao động thì không dựa dẫm vào ai), sự chăm sóc của gia đình đối với người già (những người buộc phải chăm sóc), sự chăm sóc của xã hội đối với người già  (những người chỉ dựa vào bảo hiểm xã hội) và xem xét xem người già kỳ vọng ở điều nào trong 3 điều trên. Kết quả cho thấy, Thái Lan là nước theo mô hình “Gia đình phụng dưỡng người già”, các nước tiên tiến như Đan Mạch, Italia theo mô hình “Xã hội phụng dưỡng người già”, còn Nhật và Mỹ theo mô hình “Người già tự lực”. Ý thức tự lực về tài chính của người già ở Nhật Bản có thể xem là nguồn lực to lớn đối phó với vấn đề già hóa dân số.

Bảng 2: Suy nghĩ về nguồn sinh hoạt phí khi về già ở Nhật Bản và một số quốc gia (đơn vị: %)

GIA ĐÌNH HẠT NHÂN VÀ VẤN ĐỀ CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ  Ở NHẬT BẢN NHỮNG NĂM TRƯỚC 1990 (phần 1)

Nguồn: “Điều tra so sánh quốc tế về cuộc sống và suy nghĩ của người già” (năm 1986), Phòng Chính sách người già, Cục Nội vụ.

* Đối tượng điều tra là người già trên 60 tuổi (nam, nữ)

 

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Tài liệu tham khảo:

1. 『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年 (Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988)

2. 『近代日本の地域社会』、今西一、日本経済評論社出版、2009年 (Imanishi Hajime (2009), Cộng đồng địa phương Nhật Bản hiện đại, NXB.Nihon keizai Hyoronsha)

3.『家族と地域社会』川越淳二、1990年、名著出版 (Kawagoe Junji (1990), Gia đình và cộng đồng địa phương, NXB.Meicho)

4.『日・韓・中における社会意識の比較調査』佛教大学総合研究所紀要別冊、京都、2011年 (Điều tra so sánh đối chiếu về ý thức xã hội ở các quốc gia Nhật - Trung - Hàn, Viện Nghiên cứu tổng hợp, Đại học Phật giáo, Kyoto, 2001)

5. 『家と共同体:日欧比較視点から』、岩本由輝、國方敬司、法政大学出版局、1997年 (Gia đình và cộng đồng: Từ quan điểm đối chiếu Nhật – Âu, Iwamoto Yoshiteru, Kunikata Keiji (đồng chủ biên), NXB Đại học Hosei, 1997)

6. 『家族と人口の歴史社会学』斎藤修、リブロポート、1988年 (Saito Osamu, Xã hội học lịch sử về gia đình và dân số, NXB Libro, 1988)

7. 『人口減少社会、未来への責任と選択』厚生省大臣官房政策課編、ぎょうせい出版社、1998年 (Xã hội suy giảm dân số, trách nhiệm và sự lựa chọn tương lai, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1998)

 


Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn