GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

GIA ĐÌNH HẠT NHÂN VÀ VẤN ĐỀ CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ Ở NHẬT BẢN NHỮNG NĂM TRƯỚC 1990 (phần 2)

Đăng ngày: 9-09-2020, 09:41

1. Chăm sóc sức khỏe khi người già đau ốm

Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, tuổi thọ trung bình của người Nhật Bản tăng lên (năm 1986, tuổi thọ trung bình của nam giới là 75 tuổi, nữ giới là 80 tuổi), tỉ lệ người cao tuổi tăng trong dân số, và cuộc sống sau khi về hưu của người già được kéo dài hơn. Cùng với tỉ lệ người cao tuổi tăng, thì số người đau ốm nằm liệt một chỗ, mắc các bệnh về trí não cũng như các bệnh tật khác cũng tăng theo. Theo thống kê năm 1985 của Sở Nội vụ Nhật Bản, có 600.000 người già bị nằm liệt hoặc mắc các bệnh về trí não, và con số này đã tăng gấp 3 lần trong 30 năm qua. Chính vì vậy, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi ở Nhật Bản đang tăng lên nhanh chóng, trong khi về mặt dân số học hoặc gia đình, những người có thể đảm đương trách nhiệm chăm sóc người già lại đang giảm xuống. Chăm sóc người già trở thành một gánh nặng xã hội ở Nhật Bản.

Biểu đồ 1: Tháp dân số Nhật Bản năm 1945

GIA ĐÌNH HẠT NHÂN VÀ VẤN ĐỀ CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ Ở NHẬT BẢN NHỮNG NĂM TRƯỚC 1990 (phần 2)

Nguồn: 人口ピラミッド,  https://dashboard.e-stat.go.jp/pyramidGraph?screenCode=00570&regionCode=00000&pyramidAreaType=2

Biểu đồ 2: Tháp dân số Nhật Bản năm 1970

GIA ĐÌNH HẠT NHÂN VÀ VẤN ĐỀ CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ Ở NHẬT BẢN NHỮNG NĂM TRƯỚC 1990 (phần 2)

Nguồn: 人口ピラミッド,  https://dashboard.e-stat.go.jp/pyramidGraph?screenCode=00570&regionCode=00000&pyramidAreaType=2

Biểu đồ 3: Tháp dân số Nhật Bản năm 1990

GIA ĐÌNH HẠT NHÂN VÀ VẤN ĐỀ CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ Ở NHẬT BẢN NHỮNG NĂM TRƯỚC 1990 (phần 2)

Nguồn: 人口ピラミッド,  https://dashboard.e-stat.go.jp/pyramidGraph?screenCode=00570&regionCode=00000&pyramidAreaType=2

Vậy thì gia đình đảm đương được đến mức độ nào nhu cầu được chăm sóc sức khỏe của người già? Kết quả điều tra so sánh quốc tế năm 1986 cho thấy các nước Nhật, Thái, Italia theo mô hình kỳ vọng nhiều vào gia đình, họ hàng thân thích và có xu hướng dựa vào gia đình là chính, trong trường hợp sức khỏe yếu đi, không thể tự chăm sóc bản thân. Trong khi đó, Đan Mạch có xu hướng dựa vào các dịch vụ có trả phí, hoặc dịch vụ công hơn là nhờ cậy gia đình hoặc họ hàng, khác với Mỹ có nhiều giải pháp như: dựa vào gia đình, nhờ các dịch vụ có trả phí, dịch vụ công, hàng xóm, bạn bè, đoàn thể tư nhân, hội tình nguyện… Nếu như về mặt kinh tế, như đã phân tích ở các bài viết trước, người già ở Nhật Bản theo mô hình “tự lực về kinh tế”, dựa vào lương hưu là chính, thì đối với vấn đề chăm sóc sức khỏe, nhất là trong trường hợp người già không thể tự chăm sóc bản thân được, việc dựa vào gia đình vẫn chiếm đại đa số và là giải pháp tối ưu vào những năm giữa thập niên 1980.

Bảng 1: So sánh quốc tế về vấn đề chăm sóc người già (đơn vị:%)

GIA ĐÌNH HẠT NHÂN VÀ VẤN ĐỀ CHĂM SÓC NGƯỜI GIÀ Ở NHẬT BẢN NHỮNG NĂM TRƯỚC 1990 (phần 2)

Nguồn: “Điều tra so sánh quốc tế về cuộc sống và suy nghĩ của người già” (năm 1986), Phòng Chính sách người già, Sở Nội vụ.

* Đối tượng điều tra là người già trên 60 tuổi (nam, nữ)

* Có thể chọn nhiều câu trả lời

Như vậy, bảng trên cho thấy, ở các nước châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, khi người già đau ốm đến mức không thể tự chăm sóc bản thân được, thì họ dựa vào gia đình là chính (trên 90% dựa vào gia đình, con cái), trong khi ở các Mỹ và Đan Mạch, nhiều người già lại dựa vào hệ thống phúc lợi xã hội hoặc dịch vụ có thu phí.

Về những người chăm sóc người già trong gia đình, ở Nhật Bản, trường hợp nam giới cao tuổi đau ốm thì dựa vào vợ và con dâu, nữ giới thì nương tựa nhiều nhất vào con dâu, sau đó lần lượt đến con gái, chồng và con trai. Ở các nước Âu Mỹ, phụ nữ cao tuổi kỳ vọng vào sự chăm sóc của con gái, hầu như không nhờ vả gì con dâu cả. Đây là điểm khác biệt lớn, cho thấy vai trò của người con dâu trong gia đình Nhật Bản lớn hơn nhiều so với các nước Âu Mỹ. Trên thực tế, nhiều cụ già nằm một chỗ chỉ nhờ vào sự chăm sóc của vợ hoặc con dâu. Theo “Điều tra cơ bản về tình hình cuộc sống của người dân” do Bộ Y tế và Phúc lợi thực hiện năm 1986, chăm sóc các cụ già trên 65 tuổi nằm liệt giường nhiều nhất là con dâu với tỉ lệ 33,7%, tiếp theo đến vợ, là 28,8%, cuối cùng mới đến con cái sống chung (chủ yếu là con gái) với 24,9%.

Điều tra về “cảm nghĩ của những người chăm sóc người già trong gia đình” được thực hiện với đối tượng nam nữ là dâu, rể, độ tuổi từ 30-49 tuổi cho thấy, có 93,4% số người được hỏi cho rằng trong trường hợp bố mẹ bị bệnh nằm liệt giường thì gia đình và người thân sẽ chăm sóc, và chủ yếu sẽ là con dâu chăm sóc (Sở Nội vụ, “Điều tra về vấn đề chăm sóc người già”, năm 1981). Còn khi được hỏi về việc “Cần phải có những điều kiện và cơ chế gì dành cho người vừa đi làm, vừa phải chăm sóc bố mẹ già”, thì có 36,1% cho rằng “Cần có chế độ cho nghỉ việc tạm thời, hoặc nghỉ phép dài ngày để chăm sóc”, 31,4% cho rằng “Nên kiện toàn các cơ sở y tế và viện dưỡng lão” (Sở Nội vụ, “Điều tra dư luận về lao động và cuộc sống”, năm 1987). Đối phó với thực trạng khó khăn trong việc vừa đi làm, vừa chăm sóc cha mẹ già, chính phủ Nhật Bản đã đưa ra nhiều chính sách giúp nới lỏng sức ép ở công sở.

Cho đến những năm 1980, trách nhiệm chăm sóc người già vẫn thuộc về gia đình, nhưng trong trường hợp gia đình không đủ điều kiện để chăm sóc, thì cần tới những cơ sở và dịch vụ chăm sóc người già như thế nào? “Điều tra dư luận xã hội toàn quốc” năm 1986 của Sở Nội vụ cho thấy có 31,2% người già có nhu cầu chăm sóc tại bệnh viện, 25,4% muốn được chăm sóc tại các viện dưỡng lão công, 24,7% muốn sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà, 7,9% có nhu cầu được hưởng các dịch vụ phúc lợi người già của các cơ sở tư nhân. Như vậy là con số những người muốn sử dụng các dịch vụ tại nhà hoặc tại các cơ sở y tế đã tăng lên.

Từ những năm 1980, số người cho rằng “chăm sóc người già có liên quan chặt chẽ với việc thừa kế tài sản” cũng tăng lên. Nói cách khác, theo kết quả của cuộc điều tra năm 1980 đối với các cụ già trên 60 tuổi có sở hữu tài sản cá nhân, thì có 43,2% muốn “cho con trai trưởng thừa kế tài sản”, 35,1% “chia phần nhiều hơn cho người con chăm sóc mình” và 12,1% “chia đều cho các con”, cho thấy ý thức “gia đình trực hệ” (cho con trai trưởng thừa kế tài sản, và con trai trưởng phải có trách nhiệm chăm sóc bố mẹ già) đã suy giảm (Phòng chính sách người già, Sở Nội vụ, “Điều tra về vấn đề thừa kế tài sản”, 1980). Nhưng, theo một kết quả điều tra khác được tiến hành vào năm 1985 với đối tượng nam nữ tuổi từ 20 đến 59 tuổi, có 13,1% “muốn cho con trưởng kế thừa gia sản” (không phụ thuộc vào việc người con đó có chăm sóc mình lúc tuổi già hay không), 20% “muốn chia đều tài sản cho các con”, còn số người “sẽ cho người con chăm sóc mình lúc tuổi già kế thừa gia sản” đã lên đến 58,2% (Phòng truyền thông Phủ Thủ tướng, “Điều tra dư luận về xã hội tuổi thọ cao”). Hai cuộc điều tra trên đây có đối tượng điều tra khác nhau, nên khó có thể so sánh một cách chính xác sự biến đổi trong ý thức của người Nhật Bản đối với việc chăm sóc cha mẹ già và thừa kế tài sản, tuy nhiên, có thể nói, luật quy định về việc “chia đều tài sản cho các con” được ban hành, cùng với tập quán “gia đình trực hệ” (tam đại đồng đường) đang dần lùi xa, đã phần nào ảnh hưởng đến suy nghĩ của người Nhật trong việc chăm sóc bố mẹ lúc tuổi già.

2. Chăm sóc về mặt tinh thần

Trước Chiến tranh Thế giới thứ hai, một “gia đình lý tưởng” là gia đình có con trai trưởng thừa kế và coi sóc gia sản, con dâu trưởng lo việc bếp núc và sinh hoạt hàng ngày của toàn bộ gia đình, còn ông bà thì chăm sóc cháu, mô hình “tam đại đồng đường” đảm bảo cho người già một cuộc sống tuổi xế chiều an yên. Hiện nay, tuổi thọ trung bình của người Nhật tăng lên, xét về tuổi tác, ba thế hệ có thể chung sống dài lâu dưới một mái nhà, nhưng trên thực tế, như đã phân tích ở phần trên, do sự phát triển của kinh tế và biến đổi xã hội, ý thức sống chung với con cái của người già ở Nhật Bản cũng có những thay đổi, “số người già nghĩ rằng “Tam đại đồng đường” là mô hình lý tưởng để có cuộc sống an yên lúc tuổi già” cũng đã giảm xuống đáng kể” (Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988, tr.125).

Một nghiên cứu về cách thức người già (60 - 74 tuổi) sử dụng thời gian rảnh rỗi như thế nào cho thấy, có tới 78,6% người già dành thời gian cho việc “xem ti vi và đọc báo, tạp chí”, 32,7% dành thời gian cho “các sở thích và thú vui”, 25,9% muốn “gặp gỡ bạn bè, hàng xóm”, còn số người muốn “vui vầy cùng con cháu” chỉ có 32,1% (Phòng chính sách người già, “Điều tra về cuộc sống sinh hoạt của người già tại các địa phương”, 1980). Theo kết quả điều tra về người già sống chung cùng gia đình con cháu, thì có tới 60% người già sống cùng con cháu vào những năm 1980, nhưng lại có tới hơn một nửa trong số họ không chọn cách “vui vầy cùng con cháu”, điều này cho thấy, đối với người già, ý nghĩa về mặt tinh thần và tình cảm của gia đình đã có những thay đổi.

Theo kết quả điều tra so sánh quốc tế giữa Nhật Bản và các nước Thái Lan, Mỹ, Đan Mạch, Italia về việc “người già giao lưu với gia đình con cái sống riêng” được thực hiện năm 1981, Nhật Bản là nước có tỉ lệ giao lưu thấp nhất. Ở các nước Âu Mỹ, hầu hết các cụ già sống riêng, nên thay vào đó, họ tích cực giao lưu với gia đình các con cháu, đó cũng là điều dễ hiểu. Còn ở Nhật Bản, một nước cho đến những năm 1980 vẫn coi việc “bố mẹ sống chung với con cái là lý tưởng”, thì tỉ lệ này là khá thấp so với các nước có cùng giá trị quan về gia đình.

Vậy thì, những người già không sống chung cùng con cháu tham gia vào các hoạt động xã hội như thế nào? Theo điều tra của Phòng chính sách người già, Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội, con số người già tham gia các đoàn thể và hội nhóm ở địa phương lên tới 69,2%. Trong đó, có 39,6% tham gia các câu lạc bộ người già, 35,1% tham gia hội phố và hội tự trị địa phương, 11,2% tham gia vào các nhóm sở thích... Kết quả điều tra so sánh quốc tế cho thấy chỉ có khoảng trên 20% người già ở Nhật Bản “thường xuyên, hoặc thỉnh thoảng tham gia” vào các hoạt động xã hội, trong đó “tham gia hoạt động của câu lạc bộ người cao tuổi” chiếm 21,7%, “hoạt động tình nguyện” chiếm 15%, “hoạt động sở thích” chiếm 13,7%, “hoạt động tôn giáo” 11,1%. Ở Italia, ngoài hoạt động tôn giáo ra thì người cao tuổi ít tham gia vào các hoạt động khác, trong khi đó, ở Mỹ, Đan Mạch và Thái Lan, tỉ lệ tham gia các hoạt động xã hội của người già đều cao hơn Nhật Bản. Đặc biệt là ở Mỹ, người cao tuổi tham gia các hoạt động giao tế lên đến 72,8%, và họ tham gia tích cực cùng lúc vào rất nhiều hoạt động xã hội.

Cũng theo kết quả của cuộc điều tra này, khi so sánh về chỉ số hạnh phúc của người già ở các nước, Nhật Bản có tỉ lệ các cụ già “cảm thấy hạnh phúc” cao nhất. Điều này được lý giải là vì thời tuổi trẻ họ đã nếm trải nhiều cay đắng do chiến tranh, loạn lạc và cật lực lao động để phát triển kinh tế, khi xã hội Nhật Bản phát triển cũng là lúc họ bước vào giai đoạn  tuổi già, họ được nghỉ ngơi và hưởng các tiện ích xã hội với hệ thống phúc lợi xã hội tốt vào bậc nhất thế giới, nên việc “cảm thấy hạnh phúc” chiếm tỉ lệ cao trong người cao tuổi là điều đương nhiên. Tuy nhiên, Nhật Bản cũng có tỉ lệ người già tự sát cao gấp 2-3 lần so với Mỹ, Anh và Italia. Sự giảm tỉ lệ sống chung với con cháu, chủ nghĩa cá nhân thâm nhập vào cả những gia đình sống chung nhiều thế hệ, việc người già ít giao lưu với gia đình các con nếu sống riêng, tất cả đều cho thấy đã có sự biến đổi sâu sắc về chức năng phụng dưỡng về mặt tinh thần, tình cảm của gia đình đối với người già. Bên cạnh đó, việc phụng dưỡng về kinh tế, chăm sóc về sức khỏe cũng có những biến đổi về chất, chuyển giao từ trách nhiệm của gia đình sang trách nhiệm của xã hội. Mặc khác, các hoạt động bên ngoài gia đình của người già ở Nhật Bản cũng không mạnh, và chỉ giới hạn trong các tổ chức ở địa phương mà thôi.

Nhật Bản đã chuyển mình từ mô hình “Xã hội sinh nhiều tử nhiều” sang mô hình “Xã hội sinh ít tử ít”, kéo theo đó là ý thức về chủ nghĩa cá nhân của người già tăng lên, tỉ lệ người già 60-70 tuổi còn khỏe mạnh chiếm rất cao trong dân số. Chính vì vậy, việc hoạch định chính sách, tạo môi trường khuyến khích người già tích cực tham gia các hoạt động xã hội, song song với đó, nhìn nhận lại cách thức giao lưu của người già với thế hệ con cháu ở Nhật Bản là việc làm cần thiết./.

Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Tài liệu tham khảo:

1. 『現代日本人の意識構造』[第七版]、NHK放送文化研究所編、日本放送出版協会、2010年 (Cơ cấu ý thức người Nhật Bản hiện đại, Viện Nghiên cứu văn hóa truyền thông NHK, Hiệp hội phát thanh xuất bản Nhật Bản, 2010)

2. 『日本の人口・日本の家族』、人口問題審議会、厚生省大臣官房政策課編、厚生省人口問題研究所、1988年 (Dân số Nhật Bản – Gia đình Nhật Bản, Viện Nghiên cứu vấn đề dân số, Bộ Y tế, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1988)

3.『日・韓・中における社会意識の比較調査』佛教大学総合研究所紀要別冊、京都、2011年 (Điều tra so sánh đối chiếu về ý thức xã hội ở các quốc gia Nhật - Trung - Hàn, Viện Nghiên cứu tổng hợp, Đại học Phật giáo, Kyoto, 2001)

4. 『家と共同体:日欧比較視点から』、岩本由輝、國方敬司、法政大学出版局、1997年 (Gia đình và cộng đồng: Từ quan điểm đối chiếu Nhật – Âu, Iwamoto Yoshiteru, Kunikata Keiji (đồng chủ biên), NXB Đại học Hosei, 1997)

5. 『家族と人口の歴史社会学』斎藤修、リブロポート、1988年 (Saito Osamu, Xã hội học lịch sử về gia đình và dân số, NXB Libro, 1988)

6. 『人口減少社会、未来への責任と選択』厚生省大臣官房政策課編、ぎょうせい出版社、1998年 (Xã hội suy giảm dân số, trách nhiệm và sự lựa chọn tương lai, Phòng chính sách, Văn phòng Bộ trưởng Bộ Y tế Phúc lợi, 1998)

 





Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn