GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Tự do tôn giáo qua những lần bổ sung, sửa đổi chính sách tôn giáo của Nhật Bản (phần 2)

Đăng ngày: 13-08-2022, 14:08

(Tiếp theo phần 1 và hết)

 

Thứ nhất là cản trở bởi Hiến pháp Nhật Bản. Hiến pháp Nhật Bản quy định rõ là Nhà nước không can thiệp vào các tổ chức tôn giáo do vậy nếu như tăng quyền giám sát của Nhà nước đối với các tổ chức tôn giáo thì có vẻ như mâu thuẫn với Hiến pháp. Đây thực sự là một bài toán nan giải đối với các nhà soạn thảo dự thảo luật sửa đổi, việc quy định trong Hiến pháp cũng là cái cớ để những thế lực chống đối đưa ra khi bác bỏ sự cần thiết của việc sửa đổi, bổ sung luật này.

Thứ hai là việc sửa đổi bổ sung luật sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích và hạn chế sự tự do hoạt động của một số tổ chức tôn giáo do vậy sẽ gặp phải sự chống đối từ phía các tổ chức này.

Thứ ba là tuy Hiến pháp có quy định sự tách biệt giữa chính trị và tôn giáo, song việc tách biệt vẫn chưa thực hiện được triệt để. Nhiều tổ chức tôn giáo vẫn hỗ trợ cho chính trị bằng việc đại diện của họ giữ ghế trong Quốc hội thông qua các cuộc bầu cử và ngược lại khi lợi ích của các tổ chức tôn giáo bị xâm hại do những thay đổi về mặt chính sách thì các đảng được tổ chức tôn giáo ủng hộ cũng ra sức ủng hộ phía đối tác trong việc giữ gìn những quyền lợi cho họ. Điển hình cho việc này là việc ủng hộ của Đảng Tân Tiến (Shinshinto) đối với Giáo phái Sokagakai. Trong cuộc bầu cử thượng viện tháng 7 năm 1995 do được Sokagakkai - một tổ chức tôn giáo có số lượng tín đồ lớn ở Nhật Bản ủng hộ nên tỉ lệ phiếu bầu của Đảng Tân Tiến rất cao. Một hành động có tính hệ quả đương nhiên là đảng này phản ứng rất mạnh mẽ đối với việc sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo vì việc sửa đổi này không có lợi cho các tổ chức tôn giáo trong đó có Giáo phái Sokagakkai.

Xung quanh việc sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo ngoài những ý kiến của các tổ chức tôn giáo và các đảng chính trị còn có những ý kiến khác nhau từ phía các học giả. Một số học giả cho rằng việc sửa đổi luật là không cần thiết. Lý do mà họ đưa ra là để ngăn chặn các hoạt động phá hoại của các tổ chức tôn giáo thì chỉ cần sử dụng “luật hình sự” và luật “ngăn chặn các hoạt động phá hoại” để bù lấp vào những chỗ mà Luật Pháp nhân Tôn giáo chưa quy định là đủ và họ cũng đưa ra lý do của sự không cần sửa đổi bởi vì những nội dung sửa đổi có thể mâu thuẫn với những quy định trong Hiến pháp về nguyên tắc chính giáo phân ly. Tuy nhiên có học giả khác lại đưa ra quan điểm hoàn toàn trái ngược với quan điểm trên, rằng ngày nay lực lượng chính trị yếu mỏng, nếu tôn giáo tự do thái quá sẽ tạo thành tình trạng tôn giáo áp bức chính trị. Không những cần sửa đổi chế độ cấp chứng nhận cho phép mà còn sửa đổi cả nghĩa vụ của các pháp nhân đó là việc phải công khai tài chính và nội dung hoạt động.

Còn về phía người dân ? Nhân sự kiện Giáo phái Chân lý Aum tấn công bằng chất độc Sarin vào hệ thống tàu điện ngầm ở Tokyo một số cuộc điều tra về quan điểm của người dân Nhật Bản đối với tôn giáo nói chung và việc sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo nói riêng đã được tiến hành. Theo cuộc điều tra của báo Ashahi vào năm 1995 về việc sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo với câu hỏi: “Với sự kiện lần này (sự kiện giáo phái Aum) việc sửa đổi luật pháp liên quan đến pháp nhân tôn giáo đang được cân nhắc. Bạn có cho rằng cần nhanh chóng sửa đổi hay là nên thận trọng. Kết quả điều tra cho thấy 63% trả lời là nên nhanh chóng tiến hành, 30% trả lời nên thận trọng, còn lại 7% không trả lời. Cũng điều tra về việc sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo cùng năm 1995 nhưng do báo Yomiuri tiến hành với câu hỏi: “ Nhân sự kiện lần này bạn có nghĩ rằng nên sửa đổi luật pháp để có thể kiểm tra được các hoạt động của các tổ chức tôn giáo hay không”. Kết quả điều tra cho thấy có 85,2% ý kiến cho rằng nên sửa đổi, 10,9% không nghĩ là cần phải sửa đổi và 3,9% không trả lời. Một cuộc điều tra khác của hội điều tra dư luận Nhật Bản về sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo vào năm 1995 với câu hỏi:  “Về Luật Pháp nhân Tôn giáo có rất nhiều vấn đề tranh luận nảy sinh, bạn nghĩ như thế nào về luật tôn giáo hiện hành”. Kết quả cụ thể như sau: 4% là số ý kiến không trả lời và trả lời không biết, 61,1% trả lời là nên xem xét lại toàn bộ, 2,8% cho rằng cứ để như hiện tại là được, 9,9% cho rằng để đáp lại tình hình thực tế thì nên tăng cường sự kiểm tra, 22,2% cho rằng cần sửa lại phần quy định về chế độ thuế.

Mặc dù gặp phải những ý kiến khác nhau đối với việc sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo nhưng Chính phủ Nhật Bản nhận thấy rằng nếu không có biện pháp ngăn chặn sớm các hoạt động tự do, tuỳ tiện của các tổ chức tôn giáo thì sự việc sẽ phát triển mạnh đến một lúc nào đó sẽ không thể kiểm soát được. Cuối cùng, bản dự thảo sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo đã được trình lên Quốc hội Nhật Bản để xem xét thông qua. Ngày 8 tháng 12 năm 1995 dự thảo sửa đổi Luật pháp nhân tôn giáo đã được thông qua. Những điểm mới được sửa đổi bổ sung cụ thể như sau:

Thứ nhất, các pháp nhân tôn giáo có đặt cơ sở ở hai đô, đạo, phủ, tỉnh trở lên thì chuyển giao cho bộ trưởng Bộ Giáo dục quản lý. Hiện tại các pháp nhân đóng ở nhiều đô, đạo phủ, tỉnh do Bộ Giáo dục quản lý còn các số khác vẫn do các quan chức đứng đầu các đô, đạo , phủ, tỉnh quản lý.

Thứ hai, trong vòng 4 tháng sau khi năm tài chính kết thúc, pháp nhân tôn giáo phải nộp cho cơ quan quản lý danh sách các hội đồng và các văn bản liên quan đến tài vụ như  danh mục tài sản, sổ thu nhập.... để cơ quan quản lý nắm tình hình hoạt động của pháp nhân đó. Các pháp nhân tôn giáo có thu nhập hàng năm dưới một mức nào đó thì tạm thời miễn trừ nghĩa vụ nộp báo cáo về tài chính.

Thứ ba, khi tín đồ và những người có liên quan khác yêu cầu xem xét các văn bản liên quan đến tài chính và biên bản nghị sự, nếu nhận định thấy rằng người yêu cầu có mục đích chính đáng, đọc các tư liệu này có lợi cho người  yêu cầu thì pháp nhân tôn giáo phải đồng ý cho đọc.

Thứ tư, trong các trường hợp sau đây cơ quan quản lý pháp nhân tôn giáo có quyền yêu cầu pháp nhân đó báo cáo về các công việc quản lý và hoạt động của mình, hay trao cho nhân viên của mình quyền chất vấn: (1) khi thu nhập từ sự nghiệp kinh doanh của các pháp nhân không dùng cho pháp nhân tôn giáo này; (2) khi pháp nhân tôn giáo xin phép được thừa nhận mà không đủ các yếu tố cần thiết của một tổ chức tôn giáo; (3) khi các pháp nhân tôn giáo có lý do để giải tán.

Có thể thấy rằng những nội dung chính của luật sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo tập trung vào hai vấn đề. Thứ nhất là tăng sự giám sát của Nhà nước đối với các tổ chức tôn giáo và thứ hai là việc yêu cầu các tổ chức tôn giáo công khai tình hình tài chính của mình. Cả hai nội dung sửa đổi đó đều nhằm mục đích kiểm soát các hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Việc công khai tài chính (việc báo cáo tài chính hàng năm) để các cơ quan có thẩm quyền có thể thấy được khả năng của tổ chức tôn giáo ấy và qua đó thấy được khả năng đe dọa đến an ninh (nếu có) của tổ chức đó đến đâu. Bởi vì muốn thực hiện âm mưu hoạt động khủng bố thì điều kiện đầu tiên là phải có kinh phí. Việc tăng cường sự giám sát để quản lý tôn giáo được tốt hơn là kinh nghiệm rút ra sau sự kiện khủng bố bằng chất độc của Giáo phái Chân lý Aum.

Việc sửa đổi chính sách tôn giáo của Chính phủ Nhật Bản mà cụ thể là việc sửa đổi Luật Pháp nhân Tôn giáo vẻ ngoài như đã giảm bớt quyền tự do của các tổ chức tôn giáo qua việc cho phép tăng quyền lực của nhà nước trong việc giám sát hoạt động của các tổ chức này, nhưng thực tế chính sách mới đã tạo ra một sức sống mới cho chính sách tôn giáo của Nhật Bản ngày nay. Nếu nhìn một cách tổng thể thì chính sách này đã đảm bảo được tính mềm dẻo, uyển chuyển của nó để phù hợp với tình hình trong nước cũng như thông lệ quốc tế. Điều đó có nghĩa rằng trước những diễn biến phức tạp của đời sống tôn giáo, Chính phủ đã có những đối sách thích hợp. Những đối sách đó về cơ bản vừa đảm bảo được nguyên tắc tự do tôn giáo và sự tách biệt giữa tôn giáo và Nhà nước lại vừa đảm bảo được sự kiểm tra giám sát các hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Với những thay đổi trong chính sách tôn giáo đã cho phép Chính phủ Nhật Bản kiểm soát tốt hơn các hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Đây là điều cần thiết trong tình hình hiện nay xét cả mặt trong nước lẫn quốc tế. Ở trong nước, với sự ra đời của hàng loạt tôn giáo mới cộng với những hoạt động đa dạng cuả chúng trên các lĩnh vực là một vấn đề rất phức tạp. Trong số các tôn giáo mới có không ít những tổ chức mà hoạt động của chúng bao chứa những khả năng đe dọa đến an toàn xã hội, do vậy, rất có thể sẽ là những nguy cơ tiềm ẩn đối với xã hội nếu không có sự quản lý và giám sát chặt chẽ. Ở phạm vi quốc tế gần đây có nhiều vụ khủng bố đẫm máu được gây ra bởi các nhóm tôn giáo cực đoan. Khủng bố quốc tế do các nhóm tôn giáo đứng đầu đã trở thành vấn đề của toàn cầu chứ không phải là vấn đề riêng của một quốc gia nào. Để ngăn chặn được khủng bố thì trước hết mỗi quốc gia cần phải có chính sách tôn giáo thích hợp để có thể giám sát được các hoạt động của các tổ chức tôn giáo trong nước mình. Một vấn đề nữa cũng cần phải đề cập đến đó là vấn đề lợi dụng tôn giáo gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, nếu như việc quản lý tôn giáo không tốt có thể là kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng. Do đó việc Chính phủ Nhật Bản tăng cường sự giám sát của mình đối với các tổ chức tôn giáo là điều hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh trong nước cũng như tình hình quốc tế hiện tại.

Như vậy, có thể thấy rằng một trong những nguyên nhân dẫn tới việc phải liên tiếp bổ sung, sửa đổi chính sách tôn giáo của Nhật Bản là do thực tiễn đời sống tôn giáo ở Nhật Bản không ngừng có những diễn biến mới phức tạp đe dọa đến trật tự, an ninh của xã hội Nhật Bản hiện đại. Hơn thế nữa, nguyên tắc tự do tôn giáo và tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước được thể hiện trong những văn bản pháp quy ra đời trước đây đã thể hiện những điểm không thích hợp với thực tiễn và truyền thống văn hóa Nhật Bản. Trong xu hướng biến động của đời sống tôn giáo trên thế giới và trong nước như hiện nay, chính sách tôn giáo của Chính phủ Nhật Bản chắc sẽ còn tiếp tục được hoàn thiện ngày càng phù hợp với thực tiễn mới và truyền thống văn hóa đặc thù của Nhật Bản. Từ thực tiễn sửa đổi, hoàn thiện chính sách tôn giáo của Nhật Bản từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay cũng cho thấy những luận điệu phê phán, xuyên tạc chính sách tự do tôn giáo của Việt Nam dựa theo cách hiểu về nguyên tắc tự do tôn giáo của một số quốc gia phương Tây nào đó, tách rời hoàn cảnh văn hóa, chính trị, xã hội đặc thù của Việt Nam là không có sức thuyết phục.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

  1. Phạm Hồng Thái, Đời sống tôn giáo Nhật Bản hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội – 2005.
  2. Phạm Minh Hằng, Chính sách tôn giáo của Nhật Bản từ năm 1945 đến nay, Tạp chí Lý luận chính trị số 524 (10-2021).
  3. Nguyễn Ngọc Phương Trang, Chính sách tôn giáo của Nhật Bản từ 1990 đến nay. Website Nghiên cứu Nhật Bản ngày:  1-2-2012.
  4. ウィリアム・P. ウッダード、天皇と神道―GHQの宗教政策, サイマル出版社、1972( William P. Wotsudat, Thiên hoàng và Thần đạo – Chính sách tôn giáo của GHQ, Nxb. Saimaru, 1972).
  5. Winston Davis, Japanese Religion and Society Pradigms of Structure and Change. State University of New York Press 1992.

PGS.TS.Phạm Hồng Thái

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn