GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN

Đăng ngày: 29-09-2022, 13:26

Đối với các vấn đề nổi lên hàng đầu trong đại dịch Covid-19 như thực tập sinh, du học sinh bị mất việc, mất sinh kế, không được hưởng đầy đủ quyền lợi của người lao động, bị ép về nước mà không rõ lý do dẫn đến vi phạm pháp luật, bỏ trốn…, chính phủ Nhật Bản đã từng bước có những giải pháp chính sách.

Thứ nhất, xem xét lại chính sách nhập khẩu lao động nước ngoài, nhìn nhận thẳng thắn vào thực tế thiếu nhân lực trầm trọng của Nhật Bản trong tất cả các ngành nghề do dân số già hóa, ít trẻ em kéo dài hàng thập kỷ qua là bước đi đầu tiên của chính phủ nước này. Trên thực tế, để xử lý vấn đề thiếu lao động - căn bệnh mãn tính của xã hội Nhật Bản, ngay từ trước đại dịch Covid-19, tháng 12/2018 Luật quản lý xuất nhập cảnh và công nhận tị nạn được sửa đổi và từ tháng 4/2019 Nhật Bản áp dụng loại tư cách lưu trú mới “kỹ năng đặc định”, mở ra cánh cửa đối với người lao động nước ngoài vốn bị hạn chế bởi các chính sách xuất nhập cảnh và định cư hà khắc của nước này. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng lao động nước ngoài hiện nay là lực lượng không thể thiếu, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Nhật Bản, nên vị trí xã hội và sự cống hiến của họ phải được thừa nhận. Nếu như chế độ “thực tập sinh”[1] được sáng lập năm 1981 và thể chế hóa vào năm 1993 với mục đích ban đầu là “phát triển nguồn nhân lực giúp các nước đang phát triển và thúc đẩy hợp tác quốc tế của Nhật Bản” đã không thực hiện được trọn vẹn sứ mệnh của nó khi nguồn nhân lực “thực tập sinh” phần lớn được sử dụng như một lực lượng lao động giá rẻ, một trong số họ phải làm các công việc 3K (kitsui-vất vả, kitanai-bẩn và kiken-nguy hiểm) với thù lao thấp lại không được đảm bảo đầy đủ chế độ bảo hiểm của người lao động, thì chế độ “kỹ năng đặc định” được sáng lập và đi vào thực hiện từ tháng 4/2019 đã phần nào giải quyết được các vấn đề mà “chế độ” trước để lại.

Trước hết, phải nói rằng chế độ “Kỹ năng đặc định” là một bước đi mới của chính phủ Nhật Bản vào tháng 4/2019 như một sự thừa nhận chính thức về tình trạng thiếu nhân lực do già hóa dân số, đồng thời cũng là chế độ hỗ trợ cho thực tập sinh kỹ năng có thể làm việc lâu dài tại Nhật Bản. Chế độ này cho phép người lao động nước ngoài có tay nghề và trình độ tiếng Nhật đủ để có thể làm việc ngay tại Nhật Bản mà không phải qua đào tạo sẽ được tuyển dụng sang Nhật làm việc trong thời gian tối đa là 5 năm; Đây cũng là chế độ hỗ trợ cho thực tập sinh sắp hết hạn visa, phải về nước được chuyển đổi tư cách lưu trú từ “thực tập kỹ năng” sang “kỹ năng đặc định” để có thể kéo dài thời gian làm việc tại Nhật Bản trong 14 ngành nghề “đặc định” mà chính phủ nước này quy định như: ngành chăm sóc điều dưỡng, vệ sinh tòa nhà, ngành vật liệu, chế tạo máy công nghiệp, điện - điện tử, xây dựng, đóng tàu và thiết kế hàng hải, bảo dưỡng ô tô, hàng không, nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ ăn uống… “Kỹ năng đặc định số 2” là loại tư cách lưu trú có nhiều quyền lợi hơn số 1, đặc biệt có thể nhận được visa “vĩnh trú” nhưng yêu cầu khắt khe hơn và chỉ áp dụng đối với 2 ngành nghề mà Nhật Bản đang rất cần lao động là ngành xây dựng và đóng tàu. Có thể nói, đây là cơ hội mở ra trong người lao động nước ngoài tại Nhật, song hiện nay vẫn còn thiếu chính sách hỗ trợ để người lao động có thể dễ dàng nắm bắt thông tin cũng như đạt được loại visa này.

Bảng 1: Giới thiệu về chế độ “kỹ năng đặc định”[2]

GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN

Chế độ “kỹ năng đặc định” tiếp nhận người lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, có khả năng làm việc trong các lĩnh vực ngành nghề mà Nhật Bản đang thiếu nhân lực, nhằm bù đắp phần thiếu hụt mà nguồn nhân lực trong nước không đủ đáp ứng, đồng thời phục vụ việc nâng cao sản xuất và ứng phó với vấn đề thiếu nhân lực đang ngày càng trầm trọng. Đặc điểm của cơ chế này là đảm bảo mức đãi ngộ ngang bằng trở lên cho người lao động nước ngoài so với những người Nhật ở cùng vị trí công việc và gắn trách nhiệm cho doanh nghiệp sử dụng lao động, đồng thời cũng cho phép người lao động nước ngoài có cơ hội được chuyển việc làm trong phạm vi ngành nghề được tuyển dụng. Mặc dù vẫn còn nhiều điểm giống với chế độ “thực tập kỹ năng”, song về mục đích, đối tượng, thời gian áp dụng có sự khác biệt rõ nét. Về mục đích, chế độ “thực tập kỹ năng” nhằm đóng góp cho sự phát triển của cộng đồng quốc tế thông qua chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ đào tạo nhân lực và phát triển kinh tế đối với các nước đang phát triển, còn chế độ “kỹ năng đặc định” có mục tiêu đảm bảo nguồn nhân lực cho các ngành nghề đang thiếu hụt nhân lực trong nước Nhật. Về điều kiện để đạt được tư cách lưu trú, đối với tư cách lưu trú “thực tập kỹ năng”, ngoại trừ ngành điều dưỡng, lao động theo diện “thực tập kỹ năng” không cần điều kiện thi đỗ kỹ thi năng lực tiếng Nhật của Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản, nhưng lao động “kỹ năng đặc định” có kèm theo yêu cầu về năng lực tiếng Nhật. Điều này là do lao động “kỹ năng đặc định” được xem là nguồn nhân lực chất lượng cao nên ngoài trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực được tuyển dụng, họ cần khả năng giao tiếp tốt để bắt nhịp ngay với môi trường làm việc tại Nhật. Đặc biệt, “kỹ năng đặc định số 2” là “tư cách lưu trú dành cho người nước ngoài làm việc trong các ngành nghề cần đến kỹ thuật điêu luyện trong lĩnh vực đó” nên chỉ chấp nhận nguồn nhân lực “có kỹ năng và trình độ chuyên môn cao bằng hoặc hơn lao động có tư cách lưu trú “theo lĩnh vực chuyên môn, kỹ thuật” (chuyên gia) hiện nay. Thời gian lưu trú không bị giới hạn, nhưng cần xin cấp phép mới định kỳ. Nếu đạt đủ các điều kiện theo quy định thì lao động “kỹ năng đặc định số 2” được phép mang gia đình sang Nhật cùng chung sống và không có nghĩa vụ phải đăng ký cơ quan hỗ trợ.

Bảng 2: Kế hoạch tiếp nhận lao động “kỹ năng đặc định” đến năm 2024[3]

Đơn vị: người

GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN

Như đã phân tích ở phần trên, lao động nước ngoài tại Nhật Bản đã đạt con số 1,7 triệu người vào tháng 10/2021, ghi nhận mức cao kỷ lục trong 9 năm liên tục kể từ năm 2013 và vẫn duy trì được sự gia tăng cho dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19. Trong đó, hiện nay lao động nước ngoài theo diện “kỹ năng đặc định” là 29.592 người, chỉ chiếm vỏn vẻn 1,7% so với tổng thể, nhưng đã tăng gấp 4 lần so với trước đó. Tuy nhiên, quy mô tiếp nhận lao động “kỹ năng đặc định” theo quy hoạch của Chính phủ là trong vòng 5 năm từ năm 2019 - 2024 tiếp nhận tối đa 345.000 người, trong khi trên thực tế đến cuối quý 3 năm 2022 tỉ lệ đạt được vẫn rất nhỏ, chỉ 11,1% nên khó có thể khẳng định rằng việc tiếp nhận lao động “kỹ năng đặc định” đã diễn ra một cách suôn sẻ.

Nguyên nhân của vấn đề trên trước hết là do lệnh hạn chế đi lại, đóng cửa biên giới trong đại dịch Covid-19. Bên cạnh đó, khoảng thời gian từ lúc thiết lập cơ chế cho tới khi đi vào thực hiện rất ngắn, dẫn đến việc chuẩn bị các điều kiện thi cử đối với những ngành nghề được đề xuất và việc ký kết thỏa thuận giữa Nhật Bản với các quốc gia xuất khẩu lao động bị chậm trễ, ảnh hưởng đến sự gia tăng lao động “kỹ năng đặc định” như đã trình bày ở bảng 3. Xét từng ngành nghề, có thể thấy những ngành nghề chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 như ngành “vệ sinh tòa nhà”, “nghiệp vụ hàng không, sân bay”, “khách sạn”, “dịch vụ ăn uống” có tỉ lệ tiếp nhận lao động rất thấp, chỉ đạt chưa đầy 5% so với chỉ tiêu đề ra. Còn các ngành chịu ảnh hưởng tương đối nhỏ như “ngành điều dưỡng”, “ngành ngư nghiệp” thì do lệnh hạn chế xuất nhập cảnh và thực hiện các kỳ thi muộn cũng dẫn đến con số lao động được tiếp nhận chưa như kỳ vọng. Tuy nhiên, đối với ba nhóm ngành chế tạo là “chế tạo vật liệu”, “gia công cơ khí” và “cơ điện, điện tử” con số lao động theo diện “thực tập kỹ năng” được chuyển sang “kỹ năng đặc định tương đối lớn”, ngay trong đại dịch Covid-19 số người được chuyển đổi vẫn không ngừng tăng. Ngành “chế biến thực phẩm” vốn là ngành tiếp nhận lao động nước ngoài lớn nhất - chiếm tới 36,1% với 138.000 lao động tính đến tháng 10/2021, có nhiều lao động chuyển đổi từ “thực tập kỹ năng” sang “kỹ năng đặc định” nên gia tăng tích cực so với các ngành nghề khác (đã đạt được 40,7% chỉ tiêu). Đáng chú ý, lao động “kỹ năng đặc định” Việt Nam hiện nay đang chiếm con số lớn nhất với 23,9 nghìn người, chiếm 62,5% tổng số lao động nước ngoài có tư cách lưu trú “kỹ năng đặc định” tại Nhật Bản, trong đó tỉ lệ chuyển đổi từ diện “thực tập kỹ năng” sang “kỹ năng đặc định” của Việt Nam là 54,3%, ngành nghề chiếm tỉ lệ “kỹ năng đặc định” cao nhất của Việt Nam là ngành “chế biến thực phẩm” (70%). Trong tương lai, các ngành nghề tiếp nhận lao động “kỹ năng đặc định” được dự báo sẽ nhanh chóng tăng lên do tình trạng thiếu nhân lực tiếp tục mở rộng ở mọi lĩnh vực.

Đối sách thứ hai là giải pháp đối với vấn đề người lao động bị trả chi phí môi giới cao khi sang Nhật làm việc. Việt Nam, Campuchia và Trung Quốc hiện nay đang là các quốc gia có chi phí môi giới cao nhất theo thống kê của Cục quản lý xuất nhập cảnh Nhật Bản. Người lao động Việt Nam phải trả khoản chi phí bao gồm phí môi giới lên tới hơn 60 vạn yên (120 triệu đồng), trong khi Trung Quốc và Campuchia đều ở mức trên 50 vạn yên (100 triệu đồng). Hiện nay, có khoảng 500 công ty phái cử lao động tại Việt Nam. Thực tập sinh Việt Nam muốn sang Nhật phải qua công ty phái cử lao động, trong khi nhiều công ty phái cử lao động không trực tiếp xuống các địa phương tuyển người mà tuyển thông qua công ty môi giới địa phương. Như vậy, người lao động phải trả hai lần chi phí để được sang Nhật làm việc, đó là chi phí cho công ty phái cử và chi phí cho người hoặc công ty môi giới. Chi phí cao nên dù được sang Nhật làm việc, họ cũng không thể kiếm đủ tiền để trả khoản nợ, dẫn đến phải bỏ trốn ra ngoài làm việc để có thu nhập cao hơn. Đây là một vấn nạn lớn của chế độ “thực tập sinh” Nhật Bản. Như vậy, chìa khóa để giải quyết vấn đề là phải xóa bỏ các công ty môi giới tại Việt Nam, đồng thời chính phủ hai nước cần tăng cường quản lý đối với các công ty, nghiệp đoàn xuất khẩu lao động, tăng hình phạt nếu phát hiện các công ty này thu số tiền vượt mức so với quy định. Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) đã đề xuất với chính phủ Việt Nam về việc xây dựng một trang web chuyên cung cấp thông tin về nhu cầu tuyển dụng lao động của Nhật Bản, nơi người lao động Việt Nam có thể trực tiếp đăng ký ứng tuyển mà không cần thông qua môi giới. Dự án dự định triển khai vào năm 2023 và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2024.

Theo hệ thống quản lý xuất nhập khẩu lao động mới, “cửa sổ” quản lý lao động phía Nhật Bản sẽ cung cấp thông tin về nhu cầu tuyển dụng của các công ty Nhật Bản cho các công ty phải cử lao động tại Việt Nam, và các công ty Việt Nam có trách nhiệm phải đăng tải công khai thông tin nhận được từ phía Nhật. Ứng cử viên “thực tập sinh kỹ năng” có thể kiểm tra các thông tin cụ thể như công việc, địa chỉ nơi làm việc, mức lương, số ngày nghỉ… trên điện thoại thông minh, nếu thấy công việc phù hợp thì họ đăng ký trực tiếp với cơ quan phái cử lao động, loại bỏ được khâu trung gian và chi phí môi giới. Hệ thống quản lý mới cũng cho phép ngăn chặn những vấn đề có thể phát sinh bằng cách minh bạch hóa thông tin trước khi người lao động sang Nhật làm việc, giúp họ không bị lừa đảo bởi mức lương và mô tả công việc khác với thực tế tại Nhật Bản. Hệ thống cũng có chức năng ghi lại số tiền mà ứng cử viên đã nộp cho công ty phái cử để làm thủ tục, giúp các cơ quan quản lý nhà nước theo dõi và sớm phát hiện, có biện pháp xử lý đối với các khoản thu bất hợp lý.

Hình 1: Sơ đồ hệ thống tuyển dụng lao động Việt Nam sang Nhật làm việc

do Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) thiết kế[4]

GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI CỦA NHẬT BẢN

Ngoài ra, chính phủ Nhật Bản đã đầu tư cải tiến, tăng cường hệ thống hỗ trợ và tư vấn cho người lao động nước ngoài ở Nhật trong đại dịch Covid-19 như: gia tăng số lượng tư vấn viên và phiên dịch viên, bổ sung thiết bị phiên dịch đa ngôn ngữ… Đặc biệt, hệ thống văn phòng Hello Work và Call Center nhằm hỗ trợ việc làm, giải quyết các thủ tục ứng tuyển việc làm cũng như xin trợ cấp thất nghiệp đã được trang bị thêm các thiết bị đa ngôn ngữ. Thông tin được cung cấp trên website “Cổng thông tin điện tử hỗ trợ cuộc sống cho người nước ngoài” của Cục quản lý tư cách lưu trú và xuất nhập cảnh Nhật Bản cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tuy vậy, rào cản ngôn ngữ vẫn là một trong những khó khăn lớn mà người lao động nước ngoài gặp phải ở Nhật Bản.

Già hóa dân số sâu sắc và những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 đã làm gia tăng nhu cầu về nguồn nhân lực của Nhật Bản hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, một số chính sách đối với lao động nước ngoài của nước này vẫn còn tồn tại bất cập. Việc tiếp nhận người lao động nước ngoài trên danh nghĩa “thực tập kỹ năng” và “du học sinh” cần được điều chỉnh nhằm đảm bảo quyền lợi đầy đủ cho người lao động. Chính sách “Tiếp nhận và cộng sinh với người lao động nước ngoài” được chính phủ Nhật Bản ban hành năm 2018 và chế độ “Kỹ năng đặc định” được thực hiện từ tháng 4/2019 đã cho thấy những bước đi mạnh mẽ, sát thực tế hơn của Nhật Bản. Về phía Việt Nam, chúng ta cũng cần quản lý chặt chẽ và có chế tài nghiêm ngặt đối với các công ty phái cử lao động Việt Nam sang Nhật Bản, cũng như chuẩn bị cho người lao động một lộ trình học tập đầy đủ về ngôn ngữ, văn hóa và kỹ năng chuyên môn để có thể nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống lao động và học tập tại Nhật Bản./.

 

Ngô Hương Lan

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Tài liệu tham khảo

  1. Website Viện Nghiên cứu chính sách Nhật Bản Nisei: https://www.nli-research.co.jp/
  2. Website Cơ quan hợp tác nhân lực quốc tế JITCO: https://www.jitco.or.jp/
  3. Website Bộ Y tế Lao động Nhật Bản: ホーム|厚生労働省 (mhlw.go.jp)
  4. Báo cáo về hiện trạng lao động nước ngoài tại Nhật Bản, website Bộ Y tế Lao động Nhật Bản: 000391311.pdf (mhlw.go.jp)
  5. Hoshino Takuya, “Thảo luận về vấn đề tiếp nhận lao động nước ngoài của Nhật Bản”, tháng 1/2022, Website Viện Nghiên cứu kinh tế Dai-ichi Life Group: 内外経済ウォッチ『日本~外国人労働者受け入れ議論の課題~』(2022年1月号) | 星野 卓也 | 第一生命経済研究所 (dlri.co.jp)
  6. Phan Cao Nhật Anh, “Lao động Việt Nam tại Nhật Bản trong giai đoạn bình thường mới”, Hội thảo khoa học Hiện trạng lao động Việt Nam tại Nhật Bản trong trạng thái “bình thường mới”, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, 17/11/2021
  7. Ngô Hương Lan, “Tình hình lao động nước ngoài tại Nhật Bản trong đại dịch Covid”, Hội thảo khoa học Hiện trạng lao động Việt Nam tại Nhật Bản trong trạng thái “bình thường mới”, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, 17/11/2021
  8. Ngô Hương Lan “Vấn đề chuẩn bị các kiến thức về ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản của du học sinh và thực tập sinh Việt Nam trước khi sang Nhật”, Hội thảo Quốc tế Vấn đề người lao động Việt Nam tại Nhật Bản - Xem xét tác động của đại dịch COVID-19 và xây dựng đối sách mới, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, ngày 2/12/2020.
  9. Báo Nikkei Shinbun bản điện tử: ベトナム技能実習の高額手数料排除へ JICA、業者通さず: 日本経済新聞 (nikkei.com)
  10. Bản tin NHK: https://www3.nhk.or.jp/news/

 



[1] “Thực tập sinh” hay còn gọi là “thực tập kỹ năng” là chế độ thực tập được trả thù lao của người nước ngoài tại Nhật Bản. Mục tiêu là học tập các kỹ năng, kỹ thuật ở Nhật Bản và khi về nước sẽ áp dụng vào công việc một cách hiệu quả, người lao động trước khi nhập cảnh chỉ cần học tiếng Nhật sơ cấp, và nếu chưa có tay nghề sẽ được đào tạo, học hỏi kỹ năng tại chương trình thực tập ở Nhật Bản.

[2] Nguồn: Cục quản lý xuất nhập cảnh và lưu trú Nhật Bản.

[3] Hai ngành “công nghiệp tàu biển” và “xây dựng” cho đến thời điểm hiện tại chưa có người lao động nào đăng ký tư cách lưu trú “kỹ năng đặc định số 2”. Kỳ thi tuyển bao gồm kỳ thi kỹ năng nghề và kỳ thi tiếng Nhật cơ sở do Quỹ Giao lưu Quốc tế tổ chức. Nguồn: Cục quản lý xuất nhập cảnh “Con số lao động theo tư cách lưu trú kỹ năng đặc định số 1” và Văn phòng Nội các “Về phương châm vận dụng chế độ tư cách lưu trú kỹ năng đặc định”.

[4] Theo Báo Nikkei ngày 28/07/2022: ベトナム技能実習の高額手数料排除へ JICA、業者通さず: 日本経済新聞 (nikkei.com)

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn