GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Gánh nặng chi phí giáo dục của các gia đình Nhật Bản

Đăng ngày: 30-05-2012, 04:57

Cho đến nay, giáo dục đã đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước Nhật Bản. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản, đặc biệt là giáo dục ở bậc tiểu học và trung học được Thế giới đánh giá như một trong những hệ thống giáo dục thành công nhất ở chỗ: vừa thực hiện được sự bình đẳng trong giáo dục, vừa đảm bảo được chất lượng giáo dục cao. Để mỗi thành viên trong xã hội có thể phát huy được tối đa năng lực tiềm tàng, thì quan trọng nhất là phải đảm bảo cơ hội được tiếp nhận giáo dục một cách bình đẳng và phù hợp với khả năng của mỗi người, không phụ thuộc vào điều kiện xã hội và kinh tế của họ.

Chính vì vậy mà chi phí cho giáo dục không chỉ do cá nhân người học và gia đình họ phải gánh chịu, mà nó phải được toàn xã hội chung tay gánh vác. Mặt khác, hiệu quả và tính cần thiết của việc xã hội hóa đầu tư cho giáo dục đã được khối các nước phát triển OECD đánh giá cao, sự quy hồi về mặt kinh tế của việc đầu tư cho giáo dục rất lớn. Ví dụ, chi phí mà nhà nước bỏ ra để một người tốt nghiệp được đại học sẽ được đền bù hơn gấp đôi với những giá trị về kinh tế mà người ấy khi đi làm mang lại cho xã hội (thông qua tăng thuế thu nhập cá nhân, giảm chi phí gánh nặng xã hội...), có nghĩa là, hiệu quả về kinh tế, xã hội của việc đầu tư cho giáo dục là rất lớn[1].

Chi phí cho giáo dục mà trung bình mỗi gia đình Nhật Bản phải gánh chịu từ khi con cái họ vào học mẫu giáo tới khi tốt nghiệp đại học, đối với trường đại học quốc lập là 10 triệu yên (tương đương khoảng 121 ngàn đô la Mỹ) (còn mức chi này ở trường tư thục sẽ lên tới 23 triệu yên) (tương đương 290.000 USD).

Mức chi cho giáo dục này, thực chất chiếm bao nhiêu phần trăm so với thu nhập của mỗi hộ gia đình? Trong trường hợp một hộ gia đình có 2 con cùng đi học trường tư, thì mức chi này chiếm quá ½ trên tổng bình quân các khoản thu nhập của cả hộ gia đình (theo Sách trắng giáo dục năm 2010).

Như vậy là gánh nặng chi phí cho giáo dục của mỗi gia đình chiếm phần lớn trong sinh hoạt phí của cả gia đình, và gánh nặng này ngày càng tăng lên khi con cái họ vào đại học, điều này có thể thấy ở tỷ lệ tiền dự trữ của các hộ gia đình. Tỉ lệ dự trữ có thể chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng thu nhập của cả năm, mỗi nhà có thể tiết kiệm được bao nhiêu tiền? Nếu số tiền dự trữ bằng âm, thì có nghĩa là tiết kiệm của năm đó bị đổ bể, thâm hụt vào tổng tiền tiết kiệm. Trong các hộ gia đình có 1 con lẫn 2 con, đến giai đoạn đứa trẻ vào đại học thì số tiền dự trữ của gia đình bắt đầu tụt xuống con số âm. (Theo một cuộc điều tra năm 2009, ở các hộ gia đình có một con, khi đứa trẻ 2 tuổi thì tiền dự trữ hàng năm của gia đình vào khoảng từ 10,9 - 11,4% tổng thu nhập. Số tiền tiết kiệm tăng cao nhất khi đứa trẻ là học sinh tiểu học, là 13,6% - 16,5%; giảm dần khi đứa trẻ học lên cấp 2 và cấp ba: tức là từ 8,1 - 10,4% khi đứa trẻ học cấp 2, và giảm xuống chỉ còn 0,2% khi đứa trẻ vào cấp 3; sụt giảm mạnh xuống đến -7,1 đến -10,4% khi đứa trẻ vào đại học. Con số này cũng tương tự như ở các hộ gia đình có 2 con, giảm xuống -7,8 đến -11,9% khi đứa trẻ học đại học[2]. Những con số này chứng tỏ một điều rằng, vào thời điểm đứa trẻ vào học đại học, thu nhập của gia đình không đủ cho chi phí giáo dục, và ở những gia đình mà các khoản dự trữ từ những năm trước đó không được dồi dào thì đứa trẻ sẽ phải đứng trước sự lựa chọn: tiếp tục học lên hay đi làm. Chi phí giáo dục cao cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ít con như hiện nay, bởi gánh nặng tài chính mà các gia đình phải chi trả.

Như vậy, gánh nặng chi phí giáo dục lớn như đã nói ở trên làm cho các gia đình có thu nhập thấp càng thêm khó khăn. Sự chênh lệch về điều kiện kinh tế gắn liền với sự chênh lệch về cơ hội được tiếp nhận giáo dục.

Nền kinh tế Nhật Bản, kể từ sau khi bong bóng kinh tế đổ vỡ, đang dần dần thoát khỏi tình trạng trì trệ, đi vào ổn định. Tuy nhiên, sự ổn định này là không bền vững, bởi ngày càng có sự khác biệt trong thu nhập. Điều này có thể thấy rõ ở “hệ số Gini” biểu thị cho sự bất bình đẳng trong thu nhập và “tỉ lệ nghèo tương đối” ở Nhật Bản.

Trong những năm gần đây, đối tượng trẻ em cần nhận trợ cấp giáo dục đang tăng lên. Trong giai đoạn giáo dục bắt buộc, trừ các trường tư thục, thì học phí và sách giáo khoa đều được miễn phí. Tuy nhiên, ngoài những thứ đó ra thì chi phí cho giáo dục vẫn còn rất lớn. Ví dụ, theo kết quả điều tra về học phí năm 2008, ngoài học phí thì các chi phí khác cho việc học tập của con cái bao gồm tiền mua dụng cụ học tập, tiền tham quan du lịch trong khóa học, tiền phí giáo dục chi cho nhà trường và chi phí cho bữa ăn tại trường lên đến 100 ngàn yên/năm ở các trường tiểu học công lập, và 170 ngàn yên/năm ở các trường trung học công lập. Trợ cấp giáo dục là khoản tiền mà các địa phương hỗ trợ cho các phụ huynh gặp khó khăn trong việc trang trải các khoản phí ngoài học phí nêu trên, đó có thể là khoản tiền trợ cấp để mua đồ dùng học tập, hay trợ cấp cho bữa ăn tại trường, và đối tượng nhận trợ cấp này phải là những người bảo trợ trẻ em chính, theo quy định của Luật bảo vệ cuộc sống, và phải là những người nằm trong chuẩn “khó khăn” theo quy định.

Một kết quả điều tra khác của Bộ giáo dục Nhật Bản năm 2010 cho thấy, học phí ở các trường đại học quốc lập, đại học tư thục và chỉ số giá tiêu dùng đã tăng cao so với năm 1975. Nếu tính mỗi con số này là 100 ở thời điểm năm 1975 thì đến nay, sau hơn 30 năm chỉ số giá tiêu dùng đã tăng gấp đôi, học phí ở các trường đại học quốc lập đã tăng khoảng 15 lần, học phí các trường tư cũng tăng lên 4 lần[3].

Trong khi học phí tăng cao như vậy, thì tình trạng học bổng - công cụ hỗ trợ làm giảm gánh nặng chi phí giáo dục đang ở tình trạng ra sao? Các nước OECD chia ra làm 2 nhóm: nhóm thứ nhất là các nước có học phí cao, nhưng tỉ lệ học sinh nhận được học bổng cũng lớn, và nhóm thứ 2 là học phí thấp. Tuy nhiên, Nhật Bản lại không rơi vào nhóm nào cả, Nhật Bản là nước có mức học phí cao, nhưng tỉ lệ học sinh nhận được học bổng rất thấp. Mặt khác, ở Nhật Bản, người chi trả học phí không phải là bản thân các sinh viên, mà là phụ huynh của họ, và vì vậy, khi con cái học lên bậc đại học và trên đại học, gánh nặng chi phí giáo dục mà họ phải gánh chịu rất lớn.

Tổ chức phát triển hợp tác kinh tế (OECD), từ năm 1992, hàng năm đều xuất bản cuốn “Chỉ số OECD về tình hình giáo dục qua biểu đồ” (Education at a Glance), trong đó đăng tải những thông tin phong phú và cập nhật về các chỉ tiêu so sánh giữa các nước thành viên OECD về cơ hội giáo dục, số lượng học sinh đang theo học cũng như tình trạng học lên ở các nước này.

Nhật Bản, so với các nước OECD, thì tổng chi tiêu cho giáo dục, bao gồm: tiền học phí mà cá nhân người học và gia đình chi trả... (gọi là chi tiêu giáo dục cá nhân), và phần chi phí cho giáo dục mà hệ thống tài chính công gánh vác, bao gồm các chi phí cho giáo dục của chính phủ và các đoàn thể địa phương (gọi là chi tiêu giáo dục công) - trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đứng vào hàng khá khiêm tốn. Tỉ lệ đầu tư cho giáo dục này so với tổng sản phẩm quốc nội, ở Nhật Bản là 5,0%, thấp hơn so với mức 8% của Ailen, mức trên 7,5% của Mỹ, Đan Mạch, Anh quốc, trên 6% của Canada, Niuziland, thậm chí còn thấp hơn cả mức trung bình của cả khối OECD là 5,7%. Bên cạnh đó, trong giai đoạn giáo dục tiền học đường (nhà trẻ, mẫu giáo) và giai đoạn giáo dục bậc cao (đại học và trên đại học), tỉ lệ chi phí giáo dục do tư nhân gánh vác ở Nhật Bản rất cao: giai đoạn tiền học đường là cao nhất trong 24 nước OECD, còn giai đoạn đại học thì đứng thứ 2 trên tổng số 27 nước.

Tỉ lệ đầu tư cho giáo dục ở khu vực công và tư (các giai đoạn) ở Nhật và một số nước OECD như sau:

 

Nguồn: http://www.mext.go.jp/b_menu/hakusho/html/hpab200901/detail/1296707.htm

 

 

Nguồn: http://www.mext.go.jp/b_menu/hakusho/html/hpab200901/detail/1296707.htm

 

 

Nguồn: http://www.mext.go.jp/b_menu/hakusho/html/hpab200901/detail/1296707.htm

 

Như vậy, một đặc điểm của Nhật Bản có thể thấy qua các biểu đồ trên, đó là trong phần đóng góp chi phí giáo dục của khu vực tư nhân, tỉ lệ đóng góp của gia đình rất cao, điều đó có nghĩa là so với các nước phát triển OECD thì gia đình Nhật Bản phải gánh chịu khoản chi phí giáo dục lớn hơn cả. Trong khi đó, đóng góp của khu vực công cho giáo dục xem ra lại khá thấp trong các nước nói trên. Tình trạng kinh tế gia đình có thể ảnh hưởng tới con đường học lên của trẻ em, do đó sự chênh lệch về kinh tế sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong giáo dục, và vấn đề này sẽ ngày càng bị củng cố và lan truyền sang các thế hệ sau.

Hương Lan, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

Trích: Chuyên đề cấp Bộ "Xu hướng cải cách giáo dục của một số nước trên Thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam", 2012.

 

Đăng Website NCNB ngày: 12-3-2012.



[1] Nguồn:  OECD “Education at a Glance 2009: OECD Indicators, Summary of key findings (Japan) (2009). Trích từ “Sách trắng văn hóa - khoa học - giáo dục Nhật Bản năm 2010”, tr.5.

  1. Khủng hoảng kinh tế và giáo dục:

Hiệu quả kinh tế, xã hội của giáo dục rất lớn.

-          (Lược) Sự quy hồi về mặt kinh tế đối với đầu tư cho giáo dục, đặc biệt ở giáo dục bậc cao là rất lớn. Ví dụ, (lược) để chi cho một nam sinh viên tốt nghiệp được bậc đại học, chính phủ các nướcOECD phải chi khoảng 27.936 USD. Nhưng, điều này mang đến sự quy hồi kinh tế (bằng việc tăng thuế thu nhập, giảm chi phí xã hội) lớn gấp hơn 2 lần như vậy, tức là vào khoảng 79.890 USD.

[2] Nguồn: Sách trắng giáo dục Nhật Bản năm 2009, tr.8.

[3] Nguồn: Sách trắng giáo dục Nhật Bản năm 2010, tr.13

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn