GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

RANH GIỚI GIỮA LƯU HỌC SINH VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI NHẬT BẢN KHÔNG RÕ RÀNG

Đăng ngày: 19-07-2012, 11:16

Lý giải cho qúa trình gia tăng mạnh mẽ này, câu trả lời chính xác nhất là do chính sách của Nhật Bản. Năm 1983, Nhật Bản đã đề ra kế hoạch tiếp nhận 10.000 lưu học sinh, và kế hoạch này đạt được sau 20 năm. Cụ thể là năm 2003, số lượng lưu học sinh đã vượt qua 10.000 người.

Năm 2010, theo số liệu của Tổ chức hỗ trợ sinh viên Nhật Bản (JASSO), có 141.774 sinh viên nước ngoài đến học tập tại Nhật Bản, tăng 6,8% tức khoảng hơn 9.000 sinh viên so với năm 2009  (bảng 1). Ở chiều ngược lại, theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục Nhật Bản, số sinh viên Nhật ra nước ngoài học tập trong năm 2008 là 66.833 sinh viên, giảm mức kỷ lục 11,1%, tức là ít hơn 8.323 sinh viên so với năm trước đó. Các quan chức ngành giáo dục cho rằng sinh viên Nhật Bản không muốn đi du học là do xu hướng hướng nội ở giới trẻ Nhật Bản. Thêm vào đó là việc cắt giảm chi phí giáo dục do suy thoái kinh tế kéo dài và sinh viên phải bắt đầu tìm kiếm việc làm sớm hơn.

Bảng 1: Số lượng lưu học sinh theo các bậc học năm 2010 so với năm 2009

Sau đại học

39.097

Tăng 10,4%

Đại học, cao đẳng

72.665

Tăng 8,3%

Các trường dạy nghề

27.872

Giảm 0,2%

Dự bị đại học

2.140

Giảm 6,7%

Nguồn: Điều tra của tổ chức JASSO

Theo JASSO, tính đến 1/5/2010, du học sinh người Trung Quốc đang đứng đầu với khoảng 86.173 người đang học tại Nhật, chiếm 60% tổng số sinh viên quốc tế tại Nhật Bản. Con số này đánh dấu mức cao kỷ lục, tăng gấp 2,7 lần so với thập kỷ trước. Hàn Quốc đứng thứ hai với 20.202 sinh viên du học Nhật Bản, tăng 3% so với năm trước, tiếp theo là Đài Loan với 5.297 sinh viên, giảm nhẹ 0,7% (bảng 2).

Bảng 2: Số lượng lưu học sinh tại Nhật Bản năm 2010 so với năm 2009

Trung Quốc

86.173

Tăng 9,0%

Hàn Quốc

20.202

Tăng 3,0%

Đài Loan

5.297

Giảm 0,7%

Việt Nam

3.597

Tăng 12,4%

Malaysia

2.465

Tăng 2,9%

Nguồn: Điều tra của tổ chức JASSO

Trong tương lai, số lượng lưu học sinh sẽ tiếp tục tăng bởi chính phủ Nhật Bản đang thúc đẩy thực thi kế hoạch tăng số lượng sinh viên quốc tế tại nước này lên khoảng 300.000 sinh viên vào năm 2020, đồng thời hỗ trợ nguồn tài chính cho những trường đại học tiếp nhận sinh viên quốc tế. Ngày 29/7/2008, kế hoạch “300.000 lưu học sinh” đã được trình bày tại một cuộc họp nội các của chính phủ Nhật Bản, với sự tham gia của các bộ như Bộ Giáo dục - Văn hóa - Thể thao - Khoa học và Công nghệ, Bộ Ngoại giao, Bộ tư pháp, Bộ Kinh tế - Thương mại và Công nghiệp, Bộ Lãnh thổ - Giao thông,… dưới sự chủ trì của thủ tướng lúc đó là ông Fukuda.

Du học tại Nhật Bản là niềm mơ ước của nhiều người nhưng vấn đề khó khăn nhất mà lưu học sinh phải đối mặt khi học tại Nhật Bản là vấn đề kinh tế. Qua tìm hiểu thực tế đời sống của lưu học sinh, có thể thấy những học sinh du học bằng tư phí có cuộc sống vất vả, họ không có tiền phải tích cực đi làm thêm, tiết kiệm trong chi tiêu hàng ngày để đảm bảo một cuộc sống tối thiểu. Những sinh viên được nhận học bổng toàn phần thì có một cuộc sống tương đối dễ chịu, có thể toàn tâm toàn ý cho công việc học tập, nhưng những sinh viên dạng này chỉ chiếm một phần nhỏ. Sinh hoạt phí đắt đỏ nên nhiều lưu học sinh tại Nhật Bản buộc phải đi làm thêm. Điều tra năm 2009 của JASSO về thực trạng đi làm thêm của lưu học sinh tại Nhật Bản phản ánh rõ thực tế này. Có những lưu học sinh có thể tự trả tiền học phí và chi phí hàng ngày nhưng đổi lại cuộc sống của họ hoàn toàn không có sự rảnh rỗi, thậm chí luôn trong sự mệt mỏi.

Bảng 3: Tỉ lệ lưu học sinh đi làm thêm năm 2009

 

Có làm thêm

Không làm thêm

Không rõ

Tổng số

Số nguời

4.531

1.428

45

6.004

Tỉ lệ (%)

75,5

23,8

0,7

100.0

Năm 2007 (%)

80,9

18,2

0,9

100.0

Năm 2005 (%)

84,4

15,6

-

100.0

Nguồn: Điều tra của JASSO

Số liệu bảng trên cho thấy số lượng lưu học sinh đi làm thêm chiếm một tỉ lệ lớn (75,5%). Có thể nói làm thêm là một phần tất yếu trong cuộc sống, thể hiện tính độc lập và tự chủ về kinh tế của lưu học sinh tại Nhật Bản.

Theo luật của Nhật Bản, sinh viên đại học thì có quyền làm thêm khi họ còn đang đi học tối đa 28 giờ một tuần mà không phải báo cáo với chính quyền địa phương. Còn những sinh viên dự bị đại học thì được làm thêm tối đa 20 giờ một tuần và bắt buộc phải báo cáo với chính quyền địa phương. Bởi vậy mà trên thực tế đa số sinh viên đại học và dự bị đều đi làm thêm; và cũng không phải là lạ khi họ làm quá thời gian quy định hoặc không báo cáo cho chính quyền.

Tuy nhiên, chính phủ Nhật Bản cũng không có hành động cụ thể hay thể hiện ý định tích cực liên quan đến việc tuân thủ các quy định về việc làm thêm này. Thay vào đó thì dường như người ta ngầm đồng ý một thực tế rằng sinh viên nước ngoài này bù đắp cho sự thiếu hụt lao động trong các công việc ngành dịch vụ và các ngành khác ở Nhật Bản. Điều đáng lưu ý ở đây là không ít trường hợp thì người ta lại không thể xác định được mục tiêu ban đầu tới Nhật Bản là gì, để học hay để làm thuê. Có thể nói ranh giới phân biệt giữa sinh viên, sinh viên dự bị đại học và người lao động không rõ ràng. Nhiều trường hợp đến Nhật du học chỉ là để có visa lưu trú, còn mục đích chính là đi làm thêm kiếm tiền. Không phải ngẫu nhiên mà trong các tờ rơi tuyển du học sinh luôn nhấn mạnh đến việc lưu học sinh có thể đi làm thêm. Vấn đề này cần phải được xem xét thấu đáo hơn trong trào lưu du học ở Nhật Bản hiện nay.

Tổng hợp từ nhiều tài liệu

Phan Cao Nhật Anh, Viện NC Đông Bắc Á.

Đăng Website NCNB ngày:   9-7-2012.

 

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn