GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

CHỦ TRƯƠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA CHÍNH PHỦ NHẬT BẢN

Đăng ngày: 25-07-2012, 15:50

1.Biện pháp đối phó với suy giảm tỉ lệ sinh và tăng cường sự cân bằng công việc và sinh hoạt thường ngày.

Trước những thay đổi như hiện nay, chú ý ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Nhật Bản là đối phó với sự sụt giảm của lực lượng lao động. Tỉ lệ sinh của Nhật Bản giảm một cách nhanh chóng và dân số đã bắt đầu giảm vào năm 2005. Nếu như xu hướng này còn tiếp tục thì số người trên 65 tuổi có thể chiếm khoảng 30% tổng dân số vào năm 2017 và 40% vào năm 2055. Giảm sút tỉ lệ sinh đang gây ra quan ngại xã hội về sự phát triển bền vững của xã hội và nền kinh tế Nhật Bản. Gia tăng tỉ lệ việc làm và năng suất lao động sẽ là mấu chốt duy trì động lực của xã hội và kinh tế Nhật Bản trong điều kiện suy giảm về mặt nhân khẩu học.

Năm 2008, Chính phủ Nhật Bản đề ra ‘chiến lược tuyển dụng mới” với chủ trương “tạo dựng một cộng đồng mà từng người đều có vai trò riêng”. Chủ trương sẽ được thực hiện trong ba năm  “một cách khẩn trương”, hỗ trợ việc tăng cường việc làm theo ba nhóm: thanh niên, phụ nữ và người lớn tuổi.

Trước hết, với nhóm thanh niên, mục tiêu là tạo ra việc làm ổn định cho họ, những người không thể tìm được công việc thường xuyên trong thời kì dài và tạo ra lượng việc làm thường xuyên cho một triệu người.

Đối với phụ nữ, mục tiêu là nhanh chóng tạo ra các điều kiện cho phép con cháu của thế hệ bùng nổ dân số sinh đẻ nhiều lên, đồng thời duy trì việc làm để gia tăng tỉ lệ sinh. Ước tính số phụ nữ trong độ tuổi làm việc từ 25 - 44 tuổi sẽ tăng thêm khoảng 200.000 người. Để thu hút phụ nữ tham gia lao động, chính phủ có nhiều chính sách khuyến khích hỗ trợ cho những đối tượng này.

Cuối cùng, đối với người lớn tuổi, mục tiêu sẽ là có 1 triệu người đang công tác tiếp tục ổn định  làm việc tới 65 tuổi. Trước thực tế là nhu cầu việc làm của người già tăng lên, chính phủ Nhật Bản ban hành nhiều luật định cụ thể để giải quyết việc làm cho người già.

Chìa khóa của chiến lược để giúp đỡ người lao động có được sự cân bằng tốt hơn giữa công việc và cuộc sống là một hiến chương năm 2007 và đang được Chính phủ bổ sung hoàn chỉnh. Sự cân bằng công việc và cuộc sống của từng cá nhân được xem là quan trọng, tạo điều kiện cho người lao động có được cuộc sống phong phú hơn. Điều này được xem là cần thiết để ngăn ngừa ành hưởng xấu đến sức khỏe, làm chậm lại tốc độ suy giảm tỉ lệ sinh, duy trì an sinh xã hội, tăng tỉ lệ công ăn việc làm,… Ngoài ra, chiến lược còn chú trọng tăng năng suất lao động bằng cách cải thiện hiệu quả hơn lề lối làm việc.

2.Xây dựng mạng lưới an toàn và trợ cấp việc làm

Khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ nước Mỹ tác động hầu như ngay lập tức tới toàn thể nền kinh tế, làm cho kinh tế toàn cầu cũng như điều kiện tuyển dụng xấu đi nhanh chóng. Nhật Bản không tránh khỏi ảnh hưởng này, và hậu quả là số lượng tương đối lớn việc làm bị mất đi trong các lao động không chính thức - lực lượng lao động mà số lượng đã tăng lên nhanh chóng trong thập kỷ qua. Ước tính của Bộ y tế, lao động và phúc lợi Nhật Bản cho thấy hơn 200.000 lao động không chính thức mất việc từ tháng 10/2008 đến tháng 6/2009. Những thống kê cụ thể về hình thức việc làm cho thấy lao động được phái cử chiếm đông nhất với hơn 130.000 lao động, tiếp theo đó là con số hơn 40.000 lao động có hợp động xác định và hợp đồng khác còn lại. Suy thoái đã ảnh hưởng trực tiếp tới ngành công nghiệp xuất khẩu như ô tô, chế tạo điện tử và bán dẫn, những ngành là trụ cột của kinh tế Nhật Bản. Hiện đang nảy sinh một cách rõ nét trên các phương tiện truyền thông là vấn đề thất nghiệp trong các đơn vị có lao động thời vụ, ví dụ như ngừng tiếp nhận tu nghiệp sinh (Hakengiri) và không tuyển dụng mới nhân sự (Yatoidome). Chính phủ đã cấp khoản ngân sách khoảng 2.000 tỉ yên để giải quyết việc làm trong ba năm tới cùng với việc dự kiến cung cấp hỗ trợ cơ bản việc làm cho 1,6 triệu lao động.

Một vấn đề quan trọng của chính sách là mở rộng độ an toàn của mạng lưới tuyển dụng mà sự yếu kém của nó là rõ ràng bởi sự tăng lên nhanh chóng số lượng người thất nghiệp. Hệ thống bảo hiểm việc làm đòi hỏi mọi người phải dự kiến có công việc tối thiểu là một năm thì mới được tham gia hệ thống này (không tính tới số lao động được phái cử). Hệ thống đã được chỉnh sửa để giảm tiêu chuẩn đăng ký cho lao động không chính thức, những người được dự kiến có việc làm 6 tháng trở lên tính từ 31/3/2009. Đồng thời, yêu cầu về “lao động đóng bảo hiểm toàn bộ cho tối thiểu 12 tháng trong 2 năm để khi bị thất nghiệp có thể được nhận được quyền lợi bảo hiểm thất nghiệp” đã được thay đổi là “tối thiểu là 6 tháng ngay trong năm bị thất nghiệp”. Trong trường hợp gặp khó khăn khi tìm kiếm công việc khác, thời gian hưởng quyền lợi sẽ được kéo dài thêm 60 ngày với những điều kiện nhất định. Đối với lao động không chính thức, những người không nằm trong hệ thống bảo hiểm việc làm sửa đổi và những người thất nghiệp lâu năm quá thời hạn cho phép, một quỹ sẽ được thành lập để trả chi phí sinh hoạt chừng nào họ đang được đào tạo chuyên môn.

Một vấn đề không thể không nhắc đến là mở rộng trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp điều chỉnh việc làm (trợ cấp ổn định việc làm khẩn cấp của doanh nghiệp vừa và nhỏ) là khoản trợ cấp chi bởi Chính phủ trung ương cho các công ty phải thu hẹp quy mô do suy thoái hoặc do các nhân tố khác nhưng vẫn duy trì chỗ làm bằng cách cho lao động nghỉ phép, đào tạo, huấn luyện và luân chuyển tạm thời. Hình thức này được thực hiện từ năm 1975, dựa trên chương trình trợ cấp Kurzarbeit (Đức) và nay tiếp tục được triển khai. Tiêu chuẩn điều kiện được nới lỏng vào tháng 12/2008 và sau đó được nới lỏng hơn nữa về nội dung. Thời gian tối đa mà các công ty được nhận trợ cấp tăng từ 200 ngày trong 1 năm lên 300 ngày trong 3 năm và tỉ lệ trợ cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng từ 2/3 lên 4/5 của lương. Trợ cấp dành cho kinh phí giáo dục và huấn luyện cũng tăng từ 1.200 yên lên 6.000 yên.

3.Thay đổi hệ thống tuyển dụng kiểu Nhật Bản

Đánh giá “hệ thống tuyển dụng lao động kiểu Nhật Bản” xoay quanh thực tế của lao động dài hạn đang là vấn đề nổi bật trong suốt thời gian này. Nhìn nhận lại trong quá khứ, Nhật Bản những năm 1970 - 1980 đã duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định khi Châu Âu và Bắc Mỹ đang chìm sâu vào cuộc suy thoái dài hạn và Nhật Bản trở thành quốc gia đứng đầu về thương mại. Theo như hòa ước Plaza đưa ra, Nhật Bản có được sự tăng trưởng nhanh, song sự thịnh vượng lại không bền vững. Vào những năm 1980, các nhà bình luận trong và ngoài nước đã cho rằng một trong những nguyên nhân giúp Nhật Bản thành công hơn so với các nước phương Tây là nhờ hệ thống tuyển dụng của Nhật Bản, hệ thống dựa trên  thực tế tuyển dụng dài hạn, lương theo thâm niên và tổ chức công đoàn doanh nghiệp.

Trong suốt thời kỳ suy thoái những năm 1990, quan điểm về hệ thống tuyển dụng kiểu Nhật Bản được coi trọng trở lại. Khi kinh tế hồi phục, các công ty giành lại sự tin cậy về quản lý, ý kiến của người lao động cũng cho thấy quan niệm về lao động dài hạn, lương theo thâm niên đang được xem xét trở lại. Kiểu gắn kết với doanh nghiệp, phát triển sự nghiệp ban đầu và tiếp tục làm việc tại cùng một công ty, đã từng bị chỉ trích như là điểm yếu của hệ thống việc làm kiểu Nhật Bản, đang  được xem là một điểm sáng tích cực.

Tuy nhiên, khuôn mẫu việc làm trước đây đang thay đổi một cách rõ rệt và lao động không chính thức chiếm 30% tổng số lao động. Câu hỏi đặt ra cho Nhật Bản là làm sao để bảo tồn những gì tốt nhất ưu việt hệ thống việc làm (bao gồm cả giải pháp với vấn đề lao động không chính thức) tại thời điểm khủng hoảng kinh tế đang diễn ra và có xu hướng kéo dài.

Phan cao Nhật Anh

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Trích chuyên đề cấp Bộ năm 2010.

 

Đăng Website Nghiên cứu Nhật Bản ngày :  19-2-2011.

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn